MỘT SỐ HƯỚNG
DẪN TỔNG QUÁT
VIỆC THỰC
HÀNH CÁC BÍ TÍCH
LM. Pet.
Trương Minh Thái
I. BÍ TÍCH
THÁNH TẨY (Rửa Tội)
Rửa tội là
bí tích tối cần thiết để được cứu rỗi. Bởi vậy, các nhà truyền giáo thời
trước, không những yêu cầu sự tiếp tay của quý chức, mà còn cần sự trợ giúp
của các y sĩ, 'bà mụ', 'cô mụ' vào công việc của các vị. Ở đây xin trình bày
về những người ban phép Rửa Tội trong giáo xứ, bổn phận của quý chức trong
việc rửa tội là những người cộng tác trong việc thánh thiện này.
1. Những
người ban bí tích Rửa Tội trong giáo xứ.
Thông
thường : cha sở, cha phó, thầy sáu.
Ngoài ra,
trong những trường hợp ở quá xa nhà thờ hoặc nguy tử, cha sở tuỳ nghi hướng
dẫn và trao quyền rửa tội cho tu sĩ, quý chức hoặc giáo lý viên.
Quá xa nhà
thờ : Tu sĩ, quý chức, giáo lý viên.
Nguy tử :
mọi người đều rửa tội được, đặc biệt là quý chức, giáo lý viên.
2. Chức việc
là người ban phép Rửa Tội
Một trong
những bổn phận quan trọng của quý chức là rửa tội cho các em nhỏ công giáo
khi không có linh mục, hay những em nhỏ ngoại giáo đang hấp hối, hoặc cho
những người lớn đang học giáo lý nhưng gặp tình trạng nguy kịch.
3. Bổn phận
của quý chức
+ Đơn xin
rửa tội : Quý chức theo địa bàn mục vụ của mình, có trách nhiệm hướng dẫn phụ
huynh làm đơn xin rửa tội cho con của họ, hoặc người dự tòng làm đơn xin rửa
tội cho mình. Đơn xin rửa tội cần ghi đầy đủ tên thánh, họ tên đứa bé (hoặc
dự tòng), ngày tháng năm sinh (dương lịch), nơi sinh, chánh quán, trú quán,
tên thánh, họ tên của cha mẹ và người đỡ đầu. Đồng thời quý chức cũng chứng
nhận tình trạng sống đạo của cha mẹ các em, cần khéo léo và tế nhị trong việc
này, cũng có thể trình bày riêng với cha sở. Tuỳ tình hình mục vụ của giáo xứ
có ấn định ngày rửa tội trẻ em hoặc không, quý chức báo với cha sở các em xin
rửa tội, hoặc xin ngài ấn định ngày giờ để rửa tội cho các em.
+ Trường
hợp quý chức ban phép rửa tội (nguy tử hoặc quá xa nhà thờ) : quý chức cần
ghi lại đầy đủ : tên thánh, họ tên người được rửa tội, ngày tháng năm sinh
(dương lịch), nơi sinh, chánh quán, trú quán, tên thánh, họ tên của cha mẹ,
người đỡ đầu và người ban phép rửa tội ; rồi nộp lại cho cha sở để ghi vào sổ
rửa tội.
+ Quý chức
phải học biết tường tận về những việc phải làm khi cử hành bí tích Rửa Tội để
tham dự và hướng dẫn giáo dân, nhất là để cử hành trong trường hợp nguy tử
hoặc được cha sở ủy thác.
+ Quý chức
phải chỉ dẫn cho những phụ huynh và người đỡ đầu (vú, bõ) biết những câu họ
phải thưa trong nghi thức rửa tội, người đỡ đầu ý thức những bổn phận thiêng
liêng họ phải chu toàn về sau đối với 'con đỡ đầu', lúc em còn nhỏ cũng như
khi em đã trưởng thành.
II. BÍ TÍCH
THÊM SỨC
Vai trò
của quý chức không thể thiếu nơi giáo họ chính cũng như giáo họ lẻ. Quý chức
cần nắm biết những em đã rước lễ lần đầu mà chưa thêm sức, và cộng tác với
giáo lý viên trong việc đôn đốc các em và gia đình các em để các em được học
giáo lý và kinh nguyện đầy đủ. Hoặc chính quý chức giữ việc dạy các em kinh
nguyện, những điều chính yếu trong đạo; ngay từ lúc các em đến tuổi có trí
khôn, nhất là thời kỳ các em chuẩn bị nhận phép bí tích Thêm Sức, Rước Lễ lần
đầu, Rước Lễ bao đồng. Lớp giáo lý thường được tổ chức từ nhiều tháng trước
ngày lễ thêm sức. Rồi chuyển lại cho cha sở danh sách những ứng viên đủ khả
năng nhận bí tích Thêm Sức, họ dạy và khảo hạch giáo lý, sửa soạn cho những
người đỡ đầu.
III. BÍ TÍCH
GIẢI TỘI.
Quý chức
và nhất là các giáo lý viên có nhiều bổn phận liên quan đến bí tích Giải Tội:
1. Quý
chức lo việc dạy giáo lý cho các em tới tuổi xưng tội, rước lễ lần đầu nhất
là ở các giáo họ xa xôi, thiếu giáo lý viên. Họ trao cho cha sở danh sách các
em đã được dạy giáo lý, chỉ dẫn cho các em biết cách xưng tội.
2. Quý
chức nhắc nhở các bậc phụ huynh bổn phận thúc dục con cái học giáo lý, chuẩn
bị cho các em xưng tội, rước lễ.
3. Quý
chức nhắc nhở các vú, bõ đỡ đầu rửa tội của các em đừng quên bổn phận thiêng
liêng dìu dắt các em.
4. Ở các
giáo họ xa xôi không có linh mục, quý chức kêu gọi giáo dân chu toàn việc
xưng tội trong mùa Phục Sinh; đưa dẫn những người từ lâu không xưng tội đến
tòa giải tội.
5. Quý
chức và nhất là ông Trưởng giáo họ, phải nắm biết tình trạng phần hồn giáo
dân của giáo họ mình như: người nào đã xưng tội và rước lễ trong mùa Phục
Sinh, người nào đã rước lễ lần đầu nhưng chưa chịu phép Thêm Sức. Hằng năm họ
báo lại cho cha sở để làm sổ tất niên.
IV. BÍ TÍCH
THÁNH THỂ
Sự góp
phần của quý chức trong thừa tác vụ linh mục liên hệ đến bí tích Thánh Thể,
cụ thể là việc rước lễ, được thực hiện dưới nhiều hình thức thực tế:
1. Dạy
giáo lý để các em nhỏ chuẩn bị rước lễ lần đầu hay rước lễ bao đồng. Đặc biệt
ở giáo họ không có linh mục, không có tu sĩ hay giáo lý viên, thì quý chức
phải đảm nhiệm việc này. Họ dạy giáo lý cho các em nhỏ, rồi đưa các em tới
gặp linh mục. Sau khi khảo thí các em kỹ càng, nghe các em xưng tội, linh mục
sẽ cho các em rước lễ lần đầu.
2. Quý
chức để ý, động viên khéo léo giáo dân trong giáo họ thường xuyên dự lễ và
rước lễ, nhất là trong mùa Phục Sinh (từ Thứ Tư Lễ Tro đến lễ Chúa Thánh Thần
Hiện Xuống). Cần lưu tâm số giáo dân rước lễ mùa Phục Sinh và báo lại cho cha
sở để làm sổ tất niên.
3. Quý
chức còn phải tậm tâm giúp những người bệnh tật, già cả… không dự lễ được,
hướng dẫn họ dọn mình, và mời linh mục mang Mình Thánh Chúa đến cho họ rước
lễ, khuyến khích gia đình và giáo dân ở gần tham dự cầu nguyện cho họ.
4. Thừa
tác viên trao Mình Thánh Chúa : Theo Huấn Thị Đức ái bao la (Immensae
Caritati), ngày 29.01.1973, số 1 : AAS 65 (1973), tr. 265-266, của
Thánh Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích : “Khi không có thầy giúp lễ đã lãnh nhận tác vụ, để phục
vụ bàn thờ và giúp linh mục và phó tế,... (Chủ tế) có thể cử những giáo dân
được làm thừa tác viên ngoại lệ trao Mình Thánh Chúa”. Vì thế, tuỳ nhu cầu
mục vụ của giáo xứ, quý chức cũng có thể được tuyển chọn để cộng tác với cha
sở trong tư cách thừa tác viên ngoại lệ trao Mình Thánh Chúa.
Có hai (02) loại thừa tác viên ngoại lệ trao Mình
Thánh Chúa:
a/ Thừa
tác viên từng lần (ad actum): Khi có đông người rước lễ, giờ thánh
lễ qúa dài, chủ tế già yếu, đau ốm… Chủ
tế được quyền chọn và trao cho những người nào xứng đáng, tác vụ trao Mình
Thánh Chúa cho giáo dân ; và chỉ được phép từng lần một.
b/ Thừa
tác viên thường xuyên (ad habitum): Cha sở xét
những người xứng đáng và đề
cử lên Đức Giám mục, được Đức
Giám mục chấp thuận và ban phép.
Khi tuyển chọn giáo dân làm thừa tác viên ngoại lệ trao Mình Thánh Chúa cần theo khuyến cáo sau đây của Đức Thánh Cha Phaolô VI: “Ứng
viên nam nữ được chỉ định phải là những người được hướng dẫn đầy đủ về mặt
giáo lý, chu toàn mọi bổn phận trong đời sống của người Kitô hữu về phương diện
luân lý cũng như đức tin. Đương sự còn phải tỏ ra xứng đáng với sứ vụ trọng
đại này, luôn học hỏi, đào sâu về Bí Tích Thánh Thể, làm gương sáng cho mọi
tín hữu qua lối sống thánh thiện và lòng tôn kính Bí Tích cao trọng này. Tuyệt
đối không chỉ định những thành phần có thể là căn cớ gây tiếng xấu trong Cộng
Đoàn Dân Chúa”.
V. BÍ TÍCH HÔN PHỐI
1. Điều tra hôn phối : Vai trò cơ bản của quý chức cộng tác
với cha sở trong bí tích hôn phối là điều tra tình trạng thong dong (không
mắc ngăn trở) của những người sắp kết hôn. Quý chức nhất là chức việc giáo họ
là những người biết rõ tình hình trong địa bàn của mình về hoàn cảnh, tình
trạng của giáo dân và những người không phải công giáo xin kết hôn với người
có đạo. Vì thế, khi có người trong giáo họ xin kết hôn, quý chức cần điều tra
kỹ lưỡng và công tâm, và phải báo cho cha sở sớm nhất nếu có ngăn trở về luật
đạo cũng như luật đời.
Trường hợp có giáo dân trong giáo họ xin kết hôn, nếu
thấy không có ngăn trở gì, quý chức hướng dẫn phụ huynh và đương sự gặp cha sở
để được hướng dẫn, sắp xếp học giáo lý hôn nhân và lập tờ rao theo qui định
của Giáo Hội. Cho đến nay, thường rao hôn phối 03 lần trong nhà thờ, trong 03
chúa nhật liên tiếp hoặc có lễ buộc. Nếu xin chuẩn rao khi co lý do chính
đáng tuỳ mức độ, cha sở chuẩn 01 lần, cha Hạt trưởng chuẩn 02 lần, Đức Giám
mục chuẩn 03 lần.
Trường hợp điều tra hôn phối một người không công giáo
trong địa bàn giáo họ cũng phải xem xét có ngăn trở gì không nhưng phải khéo
léo, tế nhị. Không nên hỏi trực tiếp đương sự hoặc gia đình đương sự, tránh
bị hiểu lầm xâm phạm đời tư hoặc luật đạo quá khắt khe…
Luật của Hội Thánh chỉ ràng buộc đối với người Công
giáo[1]. Khi đưa ra những luật này, Hội Thánh nhắm
giúp con cái mình xây dựng một cuộc sống hôn nhân và gia đình bền vững, hạnh
phúc, thánh thiện, thể hiện ơn gọi hôn nhân và gia đình như ý Thiên Chúa
muốn.
a. Điều kiện cử hành bí tích Hôn phối
Để Bí tích Hôn phối thành sự, cần những điều kiện sau:
- Hai người có tự do để kết hôn. Tự do ở đây có nghĩa
là:
. Không bị ép buộc
- Phải bày tỏ sự ưng thuận kết hôn của mình.
b. Các ngăn trở Hôn phối
Ngăn trở hôn phối là tình trạng hay hoàn cảnh làm cho
cuộc hôn phối không thành sự hoặc bất hợp pháp.
Để có thể kết hôn thành sự, cả hai phải trong tình
trạng tự do, không bị ngăn trở nào theo luật tự nhiên hoặc luật Hội Thánh.
Những ngăn trở thuộc luật tự nhiên dựa trên hôn nhân như một định chế tự
nhiên, chúng chi phối mọi người. Những ngăn trở thuộc luật Hội Thánh dựa trên
bản chất bí tích của hôn nhân, cũng như trên mối liên hệ của hôn nhân với
cộng đồng tín hữu, chỉ chi phối người Công giáo mà thôi.
Các ngăn trở hôn phối gồm có:
b. 1. Ngăn trở do chưa đủ tuổi để kết hôn
Để kết hôn thành sự, nam phải đủ 16 tuổi, nữ phải đủ 14
tuổi[5]. Tuy nhiên, Hội Đồng Giám mục của mỗi quốc
gia có quyền quy định tuổi cao hơn để kết hôn hợp pháp[6]. Tại Việt Nam, nam phải từ 20 tuổi trở
lên, nữ 18 tuổi trở lên, theo như Luật Hôn nhân và Gia đình điều 9.
b. 2. Ngăn trở do bất lực
Một trong
hai người trước khi kết hôn đã mắc chứng bất lực, không thể chữa trị được[7]. Bất lực khác với vô sinh. Bất lực
là không thể giao hợp. Còn vô sinh là không thể có con. Việc vô sinh không
phải là một ngăn trở hôn phối[8].
b. 3. Ngăn trở do đã kết
hôn
Một trong
hai người còn bị ràng buộc bởi dây Hôn phối trước[9]. Ngăn trở này chỉ chấm dứt khi:
- Người
phối ngẫu chết[10].
- Hôn nhân
thành sự nhưng chưa hoàn hợp, được Đức Giáo Hoàng đoạn tiêu vì lý do chính
đáng[11].
- Hôn nhân
giữa hai người chưa rửa tội được đoạn tiêu do đặc ân Phaolô nhằm bảo vệ đức
tin của bên lãnh nhận phép Rửa tội, do chính sự kiện là bên được rửa tội lập
hôn nhân mới, và bên không được rửa tội muốn phân ly[12].
b. 4. Ngăn trở do khác
biệt tôn giáo
Một bên
Công giáo, còn một bên không Công giáo[13].
b. 5. Ngăn trở do chức
thánh
Những
người đã chịu chức thánh không thể kết hôn thành sự[14]. Những người có chức thánh gồm:
Giám mục, linh mục và phó tế.
b. 6. Ngăn trở do khấn
dòng
Những
người chính thức thuộc về một dòng tu bằng lời khấn công khai sẽ vĩnh viễn
sống khiết tịnh (hay còn gọi là khấn trọn đời, vĩnh khấn) không thể kết hôn
thành sự[15].
b. 7. Ngăn trở do bắt cóc
Hôn nhân
bất thành đối với trường hợp bắt cóc người nữ để lấy cô ta[16].
b. 8. Ngăn trở do tội mưu
sát phối ngẫu
- Giết vợ
hay giết chồng mình (kể cả âm mưu hoặc đồng loã) để lấy người khác.
- Giết vợ
hay giết chồng của người phối ngẫu (kể cả âm mưu hoặc đồng loã) để lấy họ[17].
b. 9. Ngăn trở do họ máu
(huyết tộc)
- Theo
hàng dọc: hôn nhân bất thành giữa mọi người trong họ máu hàng dọc[18].
- Theo
hàng ngang: hôn nhân bất thành cho tới hết 4 bậc[19].
b. 10. Ngăn trở do họ kết
bạn
Hôn thuộc
theo hàng dọc dù ở cấp nào cũng tiêu huỷ hôn phối[20]. Ví dụ, giữa cha chồng với con
dâu, chàng rể với mẹ vợ. Tuy nhiên, theo hàng ngang thì không bị ngăn trở. Ví
dụ: anh chồng có thể lấy em dâu, vợ chết có thể lấy em vợ.
b. 11. Ngăn trở do công
hạnh
Hay còn
gọi là ngăn trở liêm sỉ. Ngăn trở này phát sinh do cuộc hôn phối bất thành
sau khi đã có sống chung, hoặc do tư hôn công nhiên hay công khai. Ngăn trở
này tiêu hủy hôn nhân giữa người nam với các người họ máu của người nữ bậc
một hàng dọc, và ngược lại[21]. Chẳng hạn: nếu anh X đã từng
chung chạ với cô Y, thì không thể lấy mẹ hoặc con riêng của cô Y; và cô Y
cũng không thể lấy cha hoặc con riêng của anh X.
b. 12. Ngăn trở do pháp
tộc
Những
người có họ hàng thân thuộc pháp lý do nghĩa dưỡng, ở hàng dọc hoặc hai bậc
hàng ngang, không thể kết hôn với nhau thành sự[22]. Ngăn trở này làm hôn nhân bất
thành giữa: con nuôi với cha mẹ nuôi; con nuôi với cha mẹ hoặc con cháu ruột
của cha mẹ nuôi (trực hệ); hai con nuôi của cùng một cha mẹ nuôi.
c. Chuẩn ngăn trở
Nếu mắc
phải một trong các ngăn trở trên, dù hai người có lấy nhau, hôn phối vẫn
không thành. Đó chỉ là một sự chung chạ bất hợp pháp mà thôi. Để kết hôn
thành sự và hợp pháp, cần phải xin phép chuẩn. Tuy nhiên, không phải ngăn trở
nào Hội Thánh cũng có thể miễn chuẩn được.
Đối với
những ngăn trở thuộc luật tự nhiên, Hội Thánh không có quyền miễn chuẩn. Đó
là những ngăn trở:
- Do bất
lực[23].
- Do đã
kết hôn[24].
- Do có họ
máu hàng dọc[25].
- Do có họ
máu hai bậc hàng ngang[26].
Đối với
những ngăn trở chỉ do luật Hội Thánh mà thôi thì Hội Thánh có quyền miễn
chuẩn, và khi được miễn chuẩn thì cuộc hôn nhân thành sự.
Các ngăn
trở Hội Thánh có thể miễn chuẩn khi có lý do chính đáng:
- Về tuổi
tối thiểu.
- Về họ
máu ba bậc trở đi theo hàng ngang: bà con và anh em họ.
- Về họ
kết bạn.
- Về tội
ác (tội mưu sát phối ngẫu) - (Toà Thánh chuẩn).
- Về chức
thánh (Toà Thánh chuẩn).
- Về lời
khấn (Toà Thánh chuẩn).
- Về công
hạnh.
- Về khác
tôn giáo.
Riêng đối
với các cuộc hôn nhân khác tôn giáo, sở dĩ Hội Thánh dè dặt và thận trọng chỉ
vì yêu thương con cái. Muốn gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải hoà hợp. Tín
ngưỡng là một vấn đề quan trọng. Nếu có sự khác biệt thì dễ xảy ra xung khắc,
đe doạ sự hoà hợp, nhất là đối với việc giáo dục con cái. Tuy nhiên, cũng vì
tôn trọng tự do, Hội Thánh không cấm đoán. Hội Thánh hy vọng lòng đạo đức của
bên này sẽ thánh hoá bên kia[27].
3. Trường
hợp những gia đình bị rối: Đây
là những trường người Công giáo kết hôn với người ngoài mà không có phép
chuẩn. Quý chức luôn tìm cách giải quyết những gia đình còn sống trong tình
trạng bất hợp lệ, những cặp sống chung không cưới hỏi; cố gắng động viên,
khích lệ người Công giáo cầu nguyện nhiều, dự lễ thường xuyên và tham gia
sinh hoạt với cộng đoàn dù chưa xưng tội rước lễ được. Rất nên động viên,
giải thích cho người chồng hoặc vợ ngoại giáo gia nhập Kitô giáo và hợp thức
hoá hôn nhân để vợ chồng và con cái được sống trong ân sủng Chúa. Nếu phía
ngoại giáo nhất quyết không theo vì lý do tôn giáo hay vì lý do khác thì động
viên họ xin chuẩn hôn nhân khác đạo.
4. Chế tài
đối với các đám cưới không cử hành bí tích hôn phối theo luật Hội Thánh :
Trong
bài “Áp dụng biện pháp chế tài theo giáo luật trong mục vụ kỷ luật
giáo xứ” của Linh mục Giuse Huỳnh Văn Sỹ đăng trên Bản Thông Tin
Giáo phận Qui Nhơn số 114, tháng 10 năm 2007, ở mục “Áp dụng hình
phạt trong giáo phận với một số tội phạm công khai” (trang
547-548) có viết : ‘Trong buổi thảo luận (tĩnh tâm tháng 8 và 9 năm 2007 của
các Cha giáo hạt Bình Định), Đức Cha (Giám mục Chính toà Qui Nhơn, Phêrô
Nguyễn Soạn) đã cho ý kiến chung quyết về áp dụng hình phạt cụ thể trong một
số tình huống tội phạm thường gặp sau đây.
* Chú
thích (*): Treo toà: có lẽ đây là hình phạt thuộc loại cấm chế
(interdictum), được coi như một loại và tuyệt thông cấp 2. Theo Giáo luật
điều 1332, vạ cấm chế (interdictum): - Cấm không được làm tác viên trong các
buổi cử hành phụng vụ; - Cấm không được ban và nhận bí tích và á bí tích.
Trường hợp đã có tuyên án hay tuyên bố tội, thì đương sự phải bị trục xuất
khỏi buổi cử hành phụng vụ hoặc buổi lễ phải tạm đình chỉ.
VI. BÍ
TÍCH XỨC DẦU BỆNH NHÂN
1. Giúp kẻ
liệt trong giờ lâm chung :
Vai trò
của quý chức cộng tác với cha sở trong bí tích Xức dầu bệnh nhân rất quan
trọng và nặng nề. Xin nêu lên những chỉ dẫn cơ bản trong Sách Kinh Giáo phận
Qui Nhơn (sách Mục lục), phần “Về Tử Hầu” (xuất bản năm 1996, trang 485-529)
như sau :
Giúp kẻ
liệt trong giờ lâm chung, ta nên làm những việc sau đây :
+ Một là
khuyên bệnh nhân vui lòng chịu những sự đau khổ thể xác, hiệp với những đau
khổ của Chúa Giêsu trên Thánh giá xưa.
+ Hai là
an ủi bệnh nhân về những nỗi buồn phiền đau khổ trong tâm hồn.
+ Ba là
nếu bệnh trở nặng, thì giúp dọn mình chịu các Bí tích sau cùng.
+ Ngoài ra
năng rảy nước thánh, để xua trừ ma quỷ và kêu xin Ba Đấng phù trì. Lại nhắc
bệnh nhân kêu tên cực trọng Giêsu và đưa ảnh Chuộc tội cho hôn kính mà giục
lòng yêu mến Chúa, để được ơn đại xá trong giờ lâm chung.
+ Cố gắng
hết sức để mời Linh mục đến ban các phép sau hết, đó là Bí tích Giải tội, Ơn
toàn xá giờ sau hết, Bí tích Xức dầu bệnh nhân, và rước Mình Thánh Chúa như
của ăn đàng.
+ Nên
chuẩn bị như sau theo khả năng : bàn nhỏ sạch phủ khăn trắng, trên đặt Thánh
giá và hai đèn, chén nước thánh và que rảy, dĩa nhỏ để đựng bông chùi dầu
thánh, chén nước để linh mục rửa tay, ghế để Linh mục ngồi giải tội.
+ Sau khi
Linh mục đến và chào bình an, thì đọc kinh Thú nhận, Linh mục ban Bí tích
Giải tội, hoặc giải tội lòng lành. Đoạn Linh mục ban ơn đại xá trong giờ lâm
chung. Rồi Linh mục ban Bí tích Xức dầu bệnh nhân. Sau hết cho rước Mình
Thánh Chúa như của ăn đàng.
Những
người có mặt thưa kinh với Linh mục. Nên rước Linh mục đến khi bệnh nhân còn
tỉnh táo, để nhận lãnh tròn đầy ơn ích của các phép sau cùng.
+ Khi bệnh
nhân còn tỉnh, thì người giữ kẻ liệt đọc Mười lăm sự Thương khó Đức Chúa
Giêsu, hoặc lời Chúa trối, lời Đức Mẹ than, lời giáo hữu than. Hoặc đọc kinh
Cầu ơn chết lành, hay là Bảy phần thống hối vua Đavít, để bệnh nhân nghe mà
ăn năn tội và dọn mình. Nhắc bệnh nhân trông cậy vào lòng nhân lành hay
thương xót của Chúa, hơn là nhớ đến dĩ vãng tội lỗi, kẻo ngã lòng. Còn về dĩ
vãng thì cũng chỉ nhớ chung và ăn năn tội tổng quát cũng đã đủ. Khi kêu tên
“Giêsu – Maria – Giuse”, thì kêu nhẹ, không phải kêu lớn tiếng như cách người
bên lương chiêu hồn.
+ Khi bệnh
nhân sắp tắt thở và vừa tắt hơi thì đọc các kinh theo chỉ dẫn trong Sách Kinh
Giáo phận Qui Nhơn (sách Mục lục), phần “Về Tử Hầu” từ trang 507 – 518.
2. An táng
:
Sách
Kinh Giáo phận Qui Nhơn (sách Mục lục) hướng dẫn: Các giáo nhân phải nhớ lại
khi liệm xác hay là táng xác, thì phải làm mọi việc theo luật phép Hội Thánh
dạy. Vậy chẳng những là phải xa lánh những sự dị đoan mà lại cũng phải lánh
hình bóng sự dị đoan nữa.
Cần lưu ý
về những điều phải làm khi bệnh nhân đã tắt hơi:
a/ Khi
bệnh nhân đã tắt hơi, thì vuốt mắt cho khép lại. Lấy khăn choàng riết đỉnh
đầu với cằm, đóng sít hai hàm răng với nhau. Thay áo khi tay chân còn mềm.
Mặc đò xong, để xác nằm thẳng trên giường, hai tay xếp trên ngực theo hình
Thánh giá, ôm ảnh Chuộc tội hay vấn tràng hạt Mân Côi. Linh sàn đặt trước bàn
ttrên có Thánh giá và hai đèn, đặt nơi thích hợp cho giáo hữu đến cầu lễ. Xác
Linh mục thì trở đầu về Thánh giá, mặt quay ra giáo hữu. Xác giáo dân thì trở
chân về Thánh giá và mặt cũng hướng về Thánh giá. Gần linh sàn đặt chén nước
thánh có que rảy. Người Công giáo không che mặt người chết. Thánh tất cả
những gì có vẻ mê tín dị đoan.
b/ Giáo
hữu đến cầu nguyện cho người vừa qua đời, thường lần hạt Năm Dấu Thánh, lần
hạt Mân Côi, hoặc hát những bài hay đọc những Thánh vịnh, quen dùng để cầu
nguyện cho người chết.
c/ Đưa xác
theo phép đạo, thường có Thánh giá đèn hầu dẫn đầu, tiếp theo là các tín hữu
đi đưa xác, rồi tới quan tài. Sau quan tài là gia đình và thân nhân của người
quá cố. Nếu có Linh mục đi đưa xác, thì theo sự chỉ dẫn trong sách Nghi lễ An
táng. Nếu không có Linh mục, thì cũng có thể tuỳ nghi theo các sự chỉ dẫn
trong sách này (Sách Kinh Giáo phận Qui Nhơn), hoặc là cầu lễ và khi đến
huyệt, thì đọc kinh Tiền táng, hạ huyệt, đọc kinh Hậu táng, đọc kinh Cám ơn
bế mạc.
_________________________________
HƯỚNG DẪN
MỤC VỤ BÍ TÍCH HÔN PHỐI - LỘ TRÌNH TIẾN TỚI BÍ TÍCH HÔN PHỐI
____________
(Ban Mục
Vụ Hôn NHân-Gia Đình giáo xứ Tuy Hòa)
1. Trình diện để xin học
giáo lý hôn nhân :
Khoảng 3 tháng trước ngày lãnh bí tích Hôn Phối, đôi bạn được cha mẹ dẫn đến
trình diện với linh mục quản xứ bên Nữ để chính thức đăng ký học giáo lý hôn
nhân chuẩn bị kết hôn. Đây là cuộc gặp gỡ sơ khởi để đôi bạn được hướng dẫn
hoàn tất các hồ sơ và thủ tục liên quan đến việc cử hành bí tích Hôn Phối.
Sau đây là các hồ sơ cần thiết đôi bạn được thông báo sẽ cần hội đủ :
- Xin
giấy chứng nhận Rửa Tội và Thêm Sức (Tại nơi đã được Rửa Tội và Thêm Sức).
Nếu đã có thì còn hiệu lực trong vòng 6 tháng.
- Nếu
người nam ở ngoài giáo xứ của người nữ, thì chuẩn bị xin giấy
giới thiệu hôn phối của linh mục phụ trách tại xứ của mình
(Có mẫu giới thiệu của giáo xứ)
- Giấy
đăng ký kết hôn (Có trước ngày cử hành bí tích)
Cùng với
việc thông báo chuẩn bị các hồ sơ trên, cuộc gặp gỡ đầu tiên nầy còn có thể
là dịp để gia đình đôi bạn trình bày những khó khăn, thuận lợi, và các dự
định trong việc kết hôn (Thời gian lập tờ RAO HÔN PHỐI, thời gian và địa điểm
cử hành bí tích, các thủ tục Giáo Luật phải hoàn tất…)
2. Thời gian chính thức
chuẩn bị cử hành Bí Tích Hôn Phối :
Trễ nhất là khoảng 3 tuần lễ trước ngày cử hành Bí Tích, đôi bạn cần thực
hiện các thủ tục sau :
- Đăng ký Lập Tờ Rao Hôn Phối :
Việc đăng ký “Lập Tờ Rao HP” sẽ tiến hành tại nơi sẽ cử hành bí tích : Nếu cử
hành tại nhà thờ đàng gái thì việc tiến hành
lập tờ rao sẽ lập tại xứ đàng gái. Nếu cử hành tạiđàng
trai thì sẽ tiến hành tại xứ đàng trai. Nếu
cử hành tại một nhà thờ không thuộc xứ đàng trai hoặc đàng gái, thì thường ưu
tiên tiến hành lập tờ rao tại xứ đàng gái.
- Cách đăng ký lập tờ rao :
a/. Người đi đăng ký : Phái đoàn
gồm :
- Cha mẹ của đôi bạn (Nếu trong
trường hợp cha mẹ không còn hoặc không thể đến, thì phải có người bảo hộ).
- Đôi bạn,
- Đại diện chức việc của địa
phương 2 bên (Nếu trong một giáo xứ thì đại diện các giáo khu)
b/. Hồ sơ mang theo :
- Người trong giáo xứ : Xuất trình
Sổ Gia Đình Công Giáo (Bên nữ), chứng chỉ GLHN,
- Người ngoài giáo xứ : Xuất trình
: Chứng Nhận RT-TS (chưa quá 6 tháng), Giấy Giới Thiệu Hôn Phối của cha sở
đương sự, chứng chỉ GLHN.
- Giấy Đăng ký kết hôn (nếu đã
làm).
c/. Nội dung tờ rao : Theo Mẫu tờ
rao của giáo xứ. Lập thành 2 tờ để cùng rao tại 2 xứ của đôi ban. Nếu cùng
trong giáo xứ thì chỉ cần 1 tờ.
d/. Địa điểm
và thời gian rao : Tại nhà thờ của đôi bạn vào Ngày Chúa Nhật. Rao trong 3
Chúa Nhật liên tiếp. Vì hoàn cảnh đặc biệt, có thể xin cha sở chuẩn rao 1
lần. Nếu cần kíp, có thể xin cha Hạt Trưởng sở tại chuẩn rao 2 lần. (các
trường hợp cử hành bt HP đơn giản ngoài thánh lễ cho các đôi bạn đã sống với
nhau và đã có con, hoặc bt HP chuẩn khác đạo thì không cần phải rao).
e/. Kết quả rao : Sau khi kết thúc
cuộc rao, nếu không có phản ảnh hay kiện cáo gì thì coi như đôi bạn không bị
ngăn trở nào trong việc tiến hành hôn phối. Cha sở phía không cử hành bí tích
sẽ gởi “Kết quả tờ rao nầy” cho bên cử hành bí tích trước ngày cử hành. Vì
điều kiện đặc biệt, tờ rao đến chậm, thì bên cử hành cần được cha sở đối tác
thông báo bằng điện thoại hay cách nào khác để xác nhận kết quả rao HP.
f/. Xin ấn định ngày cử hành bí
tích và chuẩn bị các lệ phí liên quan (Xem trang 3)
3. Khi cử hành bí tích Hôn
Phối
Trước ngày cử hành bí tích HP, đôi bạn được hẹn ngày để tiến hành các việc :
- Tĩnh tâm, dọn mình xưng tội và
cầu nguyện cho việc lãnh bí tích và đời sống HN-GĐ.
- Tiến hành làm tờ điều tra lần
cuối (Theo mẫu GP) trước mặt linh mục quản nhiệm.
- Trình kết quả rao hôn phối (của
giáo xứ liên hệ)
- Tập nghi thức Phụng vụ (Theo
truyền thống địa phương)
- Đến trước giờ cử hành để xem xét
mọi việc liên quan đến chính đương sự.
Lưu ý :
B. HÔN
PHỐI VỚI VIỆT KIỀU HAY NGOẠI KIỀU :
v Phải
hội đủ các hồ sơ hôn phối như sau :
1. Tờ khai trước khi cử hành bí
tích HP (Theo mẫu do VPGX hoặc linh mục thụ lý hồ sơ cấp)
2. Giấy Đăng ký kết hôn (Làm tại
phường, xã nơi đương sự cư trú)
3. Tờ Rao Hôn phối (Tại hai giáo
xứ bên nam và bên nữ)
4. Chứng chỉ rửa tội chưa quá 6
tháng tính đến ngày cưới (Các đương sự phải đi tới giáo xứ đã ban bí tích rửa
tội cho mình để xin giấy chứng nhận)
5. Chứng chỉ giáo lý hôn nhân.
6. Giấy giới thiệu hôn phối của
cha xứ liên hệ.
v Riêng
GIẤY KẾT HÔN : Phải làm tại sở tư pháp thành phố.
v Phải
có giấy VISA cho người VN để sẵn sàng ra đi đoàn tụ gia đình ở nước ngoài.
Trừ trường hợp, người nước ngoài có giấy của chính quyền VN xác nhận họ có lý
do để cư trú dài hạn tại Việt nam.
C. VỀ PHÉP
CHUẨN HÔN NHÂN KHÁC ĐẠO :
1/. Đơn xin Phép chuẩn : Đương sự
phía Công giáo đứng đơn (với chữ ký đồng thuận của phía ngoài Công Giáo) xin
với Đức Giám Mục giáo phận phía người Công giáo cư trú. (Mẫu đơn do VPGX
cấp).
2/. Đính kèm đầy đủ các giấy tờ
liên quan đến hồ sơ Hôn Phối theo số 1-6 đã nêu ở phần B.
Lưu ý quan
trọng : Giáo xứ không nhận Đơn xin phép chuẩn Hôn Nhân Khác Đạo
cho những người thuộc các diện sau :
v Người
nước ngoài về lập gia đình với người Việt
v Người
thuộc Giáo phận khác.
D. NHỮNG
LƯU Ý TỔNG QUÁT :
1). Các thủ tục hồ sơ Hôn phối tốt
nhất phải tiến hành và hoàn tất trước 3 tháng.
2). Trường hợp dành cho
những đương sự thuộc diện di dân : Cần phải đăng nhập vào giáo
xứ nơi thường trú để được chăm sóc và hướng dẫn mục vụ cùng các quyền lợi và
bổn phận theo quy định của Giáo luật.
3). Theo Giáo luật
khoản 1085 : Linh mục không có quyền chứng hôn cho các đôi Hôn
phối mà một trong hai người đã có GIẤY KẾT HÔN, CHO DÙ KẾT HÔN
GIẢ.
____________
|
Thứ Sáu, 13 tháng 1, 2012
Một Số Hướng Dẫn Tổng Quát Thực Hành Các Bí Tích
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét