Thứ Hai, 20 tháng 2, 2012


Mùa Chay Hồn Người

Nghiệm trong nhân thế đam mê
Mùa chay sang rủ đi về cùng nhau
Lớp người xưng tội trước sau
Ai sa thế tục còn đau nỗi niềm
Tâm người tiếng gọi liên miên
Thời gian chờ đợi chốn miền yêu thương
Lắng nghe sẽ thấy khác thường
Mùa chay hồn chạm thiên đường không xa.

Tội Riêng – Tội Chung

Em đi xưng tội mùa chay
Trần gian sa đọa cũng hay tội mình
Càn khôn tỉnh giấc, hồi sinh
Tương lai, quá khứ kết tình hôm nay
Nhân gian xưng tội mùa chay …

Ngựa Hoang

Đường xa rừng núi vô chừng
Ngựa hoang rời rã chợt dừng đèo mây
Từ khi loạn lạc xa bầy
Lên non xuống lũng vướng đầy bụi nhơ…
Ngày xưa, mai mốt, bây giờ
Nhủ nơi có được ai chờ ngựa không?
Ngẫm đời nhỏ bé, mênh mông
Sương sa vực thẳm bềnh bồng ngoi lên
Ngoi lên nắng dọa bên trên
Cũng như phận ngựa không tên giữa đàng
Để đời mai mỉa ngựa hoang
Người thương thấy ít, rõ ràng kẻ chê
Buồn tình không lối đi về
Mặc cho đưa đẩy cận kề bẫy giăng
Lý trời xa vợi sao trăng
Còn mặt đất, cứ tung tăng xuân thời …
Ai thương ngựa kiếp đời đời
Chỉ cho ngựa biết đường trời đã thông?

Thứ Năm, 16 tháng 2, 2012


ÂN SỦNG LÀ GÌ ?

CHƯƠNG I
Ý NGHĨA CỦA ÂN SỦNG

1. Ân sủng hay ơn nghĩa do từ latinh "gratia" dịch ra ; từ nầy có những nghĩa như sau :
a. Sự niềm nở, chiều chuộng, hảo ý ; b. Hồng ân, sự ban tặng nhưng không ; c. Lòng biết ơn và cảm mến vì ân huệ đã được ; d. Vẻ duyên dáng, vẻ đáng yêu, gây thiện cảm, đáng thi ân.
Giáo lý công giáo dùng từ ân sủng hay ơn nghĩa theo ba nghĩa trên. Như vậy, khi Thiên Chúa ban ơn cho con người là do lòng nhân hậu vô biên của Người. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã dựng nên con người, cho con người có mặt trong vũ trụ do Người sáng tạo. Vì yêu thương, Thiên Chúa nâng con người lên cho sống thân mật với Người. Bậc sống nầy gọi là bậc sống siêu nhiên, nghĩa là được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi : được hiểu biết Chúa, được yêu mến Chúa và được Chúa yêu thương. Tất cả những điều đó là hồng ân Thiên Chúa ban cho con người một cách nhưng không.

2. Vậy chúng ta có thể định nghĩa : ân sủng là một hồng ân siêu nhiên Thiên Chúa ban cho con người một cách nhưng không để con người nhờ ân sủng có thể đạt tới sự sống đời đời.
Là hồng ân siêu nhiên, vì vượt trên mọi yêu sách, mọi đòi hỏi của bản tính tự nhiên ; con người lại còn được tham dự vào bản tính Thiên Chúa là bản tính siêu việt. Hồng ân được ban cho con người một cách nhưng không để con người đạt tới cứu cánh siêu nhiên là hạnh phúc đời đời, tức là phúc thanh nhàn trên thiên đàng.

3. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo giải thích : "Ân sủng là một ân huệ, một trợ giúp nhưng không mà Thiên Chúa ban để chúng ta (con người) đáp lại tiếng gọi của Người : trở thành con cái Thiên Chúa, làm nghĩa tử, tham dự vào bản tính Thiên Chúa và vào sự sống đời đời. Ân sủng cho chúng ta tham dự vào sự sống Thiên Chúa, vào đời sống thâm sâu của Ba Ngôi Thiên Chúa" (GLHTCG 1996, 1997). "Ơn gọi vào sự sống vĩnh cửu là một ơn siêu nhiên, tùy thuộc hoàn toàn vào sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa. Ơn gọi ấy vượt mọi khả năng của trí tuệ và ý chí con người, cũng như của mọi thụ tạo" (1998).

4. Ân sủng được chia thành hai thứ : ơn hiện tại và ơn thường tại, cũng được gọi là hiện sủng và thường sủng.
Ơn hiện tại là sự trợ giúp siêu nhiên ban tạm thời, nghĩa là chỉ ban cho con người tùy lúc và tùy hoàn cảnh, để việc làm của con người có "giá trị" trước mặt Thiên Chúa, ta gọi là việc làm siêu linh. Chúa cũng ban hiện sủng cho con người để tiến tới ơn thường tại.
Ơn thường tại là ơn Chúa ban trong linh hồn một cách bền vững, nhờ đó, bản tính con người được trợ giúp một cách riêng, tài năng linh hồn được nâng lên, con người có thể sống và hoạt động một cách siêu linh. Các việc làm của con người đáng được Chúa thưởng công đời sau.
Sách Giáo lý dạy : "Ơn thánh hóa là một ân huệ thường tồn, một trạng thái siêu nhiên bền vững, hoàn thiện linh hồn để chúng ta có thể sống với Thiên Chúa và hành động nhờ tình yêu của Người. Chúng ta phân biệt ơn thường sủng và ơn hiện sủng. Ơn thường sủng là trạng thái thường xuyên để sống và hành động theo tiếng gọi của Thiên Chúa, và ơn hiện sủng là những can thiệp của Thiên Chúa lúc khởi đầu cuộc hoán cải hoặc trong quá trình thánh hóa" (GLHTCG 2000).
– — ` – —

CHƯƠNG II
SỰ CẦN THIẾT CỦA ÂN SỦNG

5. Bản tính sa ngã là tình trạng của con người sau tội nguyên tổ. Con người mất ân sủng và mọi đặc ân ngoại nhiên, trở nên bất lực không thể đạt tới cứu cánh siêu nhiên. Phần thượng, con người lìa bỏ Thiên Chúa ; phần hạ, con người cảm nhận sự phản loạn của các đam mê.
Thiên Chúa không nỡ để con người hư đi, đã quyết định cho Ngôi Lời nhập thể để cứu chuộc con người, phục hồi con người trong tình trạng ân sủng và khả năng đạt tới cứu cánh siêu nhiên. Nhờ công nghiệp của Đức Kitô (cũng gọi là ân sủng của Đức Kitô), con người được tha thứ và được trả lại tình nghĩa với Thiên Chúa.

6. Sách Giáo lý dạy : "Ân sủng của Đức Kitô là ân sủng nhưng không, qua đó Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống của Người. Nhờ Thánh Thần, Thiên Chúa ban sự sống đó vào linh hồn để chữa trị tội lỗi và thánh hóa chúng ta. Đó là ơn thánh hóa, hay ơn thần hóa, nhận được trong Bí tích Thánh tẩy. Trong chúng ta, ơn nầy là căn nguyên của công trình thánh hóa :
"Phàm ai kết hợp với Đức Kitô đều là thụ tạo mới, cái cũ đã qua, cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa, là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hòa giải với Người" (2Cr 5,17-18). (GLHTCG 1999)
7. Như thế, sau khi sa ngã con người cần có ân sủng mới có thể đạt tới cứu cánh siêu nhiên. Bởi vì trước khi sa ngã, với sức tự nhiên, con người đã không thể đạt được cứu cánh siêu nhiên, nếu không được Thiên Chúa nâng lên bậc siêu nhiên và ban ơn thánh hóa.
Để đạt tới cứu cánh siêu nhiên, con người phải có hành động vươn tới cứu cánh, chẳng hạn, hiểu biết Thiên Chúa để phụng sự, mến yêu. Nhưng hành động vươn tới cứu cánh siêu nhiên là hành động quá sức tự nhiên của con người, nên cần có sự hỗ trợ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ : "Nếu không có Thầy, anh em không thể làm được gì" (Ga 15,5).
Hơn nữa, "chuẩn bị cho con người đón nhận ân sủng cũng đã là một công trình của ân sủng. Việc chuẩn bị nầy cần thiết để khơi dậy và nâng đỡ sự cộng tác của chúng ta vào việc công chính hóa nhờ đức tin, vào việc thánh hóa nhờ đức mến" (GLHTCG 2001).
§1. Tội nhân cần ân sủng để được hoán cải

8. Để hiểu việc hoán cải phải là như thế nào, ta phải hiểu tình trạng của tội nhân sau khi phạm tội (tất nhiên là tội trọng). Khi phạm tội, con người từ chối Thiên Chúa là cứu cánh siêu nhiên của mình : từ đó con người đánh mất ơn thánh hóa, các nhân đức tin, cậy, mến, ân huệ Chúa Thánh Thần, các nhân đức luân lý như công bình, bác ái...cùng với những sự thiện tự nhiên như việc trí khôn ra lu mờ không còn tuân phục Thiên Chúa như trước nữa.
Như vậy, "hoán cải" không có nghĩa là thôi không phạm tội nữa, mà phải chổi dậy khỏi tội, phục hồi những gì đã đánh mất. Sự hoán cải còn bao hàm sự sửa chữa ba điều dữ do tội gây ra : - vết nhơ của tội, dấu vết tội lỗi để lại trong linh hồn ; - sự thác loạn của bản tính tự nhiên ; - án phạt đời đời.

9. Để hoán cải, phải có thống hối nội tâm. Sách Giáo lý dạy : "Như các ngôn sứ thuở trước, lời Chúa Giêsu kêu gọi hoán cải và thống hối trước hết không nhắm đến những việc bên ngoài, "mặc áo vải thô, rắc tro trên đầu", giữ chay và khổ chế, nhưng đến hoán cải trong lòng, thống hối nội tâm. Nếu không có thống hối nội tâm, các việc làm bên ngoài sẽ vô hiệu và dối trá. Tuy nhiên việc hoán cải nội tâm thúc đẩy người ta diễn tả thái độ ấy bằng những dấu hiệu khả giác, những cử chỉ và những việc làm của người thống hối (1430).
Thống hối nội tâm là chuyển hướng triệt để toàn bộ đời sống, hết lòng quay lại trở về với Thiên Chúa, đoạn tuyệt với tội lỗi, từ bỏ sự dữ, ghê tởm những hành động xấu xa đã làm. Đồng thời thống hối nội tâm cũng bao hàm ước muốn và quyết tâm thay đổi đời sống, với hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa và tin tưởng vào sự trợ giúp của ân sủng. Cuộc hoán cải trong lòng nầy đi đôi với sự đau buồn có sức cứu độ mà các Giáo phụ gọi là "tâm tình đau đớn" (annimi cruciatus), và "tâm hồn hối hận" (compunctio cordis).(1431).

10. Ân sủng cần thiết cho việc hoán cải.- "Lòng người nặng nề, nên phải được Thiên Chúa ban cho một trái tim mới (Ed 36, 26-27). Hoán cải trước hết là công việc của ân sủng, Thiên Chúa làm cho lòng chúng ta quay về với Người : "Lạy Chúa, xin đưa chúng con về và chúng con sẽ trở lại với Chúa" (Ac 5,21). Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để bắt đầu lại, chính khi khám phá ra tình yêu cao cả của Thiên Chúa mà lòng chúng ta bị chấn động vì thấy tội lỗi khủng khiếp và nặng nề, nên không dám phạm tội vì sợ xúc phạm đến Chúa và bị tách lìa khỏi Người. Lòng con người hoán cải khi hướng nhìn lên Đấng bị tội lỗi chúng ta đâm thâu.
Khi chiêm ngắm Máu Đức Kitô và nhận biết rằng Máu ấy quí giá biết bao đối với Chúa Cha, vì khi đổ ra để chuộc tội chúng ta, máu ấy ban cho toàn thế giới ơn hoán cải. (T. Clêmentê, thư gửi giáo đoàn Corinthô, 7,4) (GLHTCG 1432).
Từ khi Đức Kitô phục sinh, chính Chúa Thánh Thần ... ban cho lòng con người ân sủng để họ ăn năn hoán cải" (GLHTCG 1433).
Thánh Phaolô cũng quả quyết : "Thật vậy mọi người đã phạm tội và đã bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban nhưng không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Giêsu Kitô" (Rm 3,23-24).

§2. Người công chính cần có ân sủng để tránh tội

11. Trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta phải xin cho khỏi sa chước cám dỗ. Cám dỗ có thể do ma quỉ, thế gian, xác thịt. Cám dỗ cũng có thể nặng hay nhẹ. Với sức tự nhiên con người không thể tránh phạm tội được, mà cần có ơn Chúa, như Công đồng Trentô dạy : "Cần phải có một thứ ân sủng đặc biệt ta mới có thể tránh tội nhẹ được" (D.833). Như thế, tội nhẹ mà còn cần phải có ân sủng, huống nữa là tội nặng hay những cơn cám dỗ nguy hiểm. Vì vậy Giáo hội đã định tín rằng : "Nếu không có đặc ân của ân sủng Chúa thì dẫu là người công chính cũng không thể giữ được khả năng suốt đời không phạm tội nặng và nhất là không phạm tội nhẹ".

§3. Người công chính cần có ân sủng
để làm lành lánh dữ

12. Để người công chính làm lành lánh dữ cần phải có ơn hiện sủng đặc biệt của Thiên Chúa.
a. Thánh Tôma gọi ơn hiện sủng là sự trợ giúp của ân sủng. Sự trợ giúp nầy có hai cách : trợ giúp cách chung và trợ giúp cách đặc biệt. Trợ giúp cách chung cần cho hết mọi bậc và mọi hành vi của con người ; vì con người khi đã kể là công chính, thì có quyền đòi hỏi Thiên Chúa phú cho các tài năng những tập quán tốt để hành động. Tuy nhiên có khi các tài năng đó cần được Thiên Chúa khởi động, đây là sự trợ giúp đặc biệt mà thánh Tôma gọi là sự can thiệp của Thiên Chúa theo ý muốn riêng của Người. Sự trợ giúp đặc biệt nầy vốn người công chính không có quyền đòi hỏi.

13. b. Để người công chính có thể giữ mọi giới răn tự nhiên và siêu nhiên của Thiên Chúa suốt đời hay trong thời gian lâu dài và lướt thắng mọi chước cám dỗ nghịch với các giới răn ấy cần có ơn hiện sủng đặc biệt của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ : "Anh em hãy canh thức và cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối" (Mt 26,41).
Công đồng Orenge đã ấn định : "Nhờ ơn Thiên Chúa chúng ta mới có thể dừng bước trước sai lầm và bất công. Phải luôn luôn xin Thiên Chúa ban ơn trợ giúp, để những người đã được tái sinh và đã được chữa lành có thể đạt tới mục đích tốt lành, hoặc có thể kiên trì trong việc thiện".
Công đồng Trentô ấn định : "Ai nói rằng người công chính không cần ơn trợ giúp đặc biệt của Thiên Chúa vẫn có thể bền vững trong tình trạng công chính hóa, hoặc nói rằng dầu với ơn trợ giúp đặc biệt người công chính cũng không thể bền vững trong tình trạng công chính hóa, thì bị vạ tuyệt thông" (D.S. 832/1572).
Vậy Kinh Thánh cũng như các Công đồng đã dạy ta phải cầu nguyện kiên trì, để tránh tội và khỏi sa chước cám dỗ. Việc cầu nguyện ngầm hiểu chỉ có ơn Chúa giúp, ta mới có thể thắng chước cám dỗ và xa lánh tội lỗi.

˜ ™ @ ™ ˜

§4. Người công chính cần có ân sủng để bền chí làm việc lành

14. Sự bền chí trong việc lành có nghĩa là người công chính, dầu khó khăn, trở ngại, vẫn giữ được tình trạng ơn nghĩa với Chúa trong cuộc sống cho đến cùng, nghĩa là được chết trong ơn nghĩa với Chúa. Điều nầy cần đến một ân sủng rất đặc biệt. Chính Chúa Giêsu đã nhắc nhở các môn đệ nhiều lần nhiều cách :"Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào" (Mt 25,23).
Giáo lý của Giáo hội trong Công đồng Orenge II đã ấn định : "Những người đã được tái sinh và được chữa lành phải luôn luôn xin ơn trợ giúp để đạt mục đích tốt lành và kiên trì làm việc thiện".
Công đồng Trentô gọi sự bền chí đến cùng là một hồng ân vĩ đại, chỉ một mình Thiên Chúa có thể ban mà thôi.


CHƯƠNG III
BẢN CHẤT CỦA ÂN SỦNG

15. Ân sủng là một hồng ân Thiên Chúa ban cho con người do lòng khoan nhân vô biên của Thiên Chúa. Như thế, ân sủng có tính chất siêu nhiên, nên khi Thiên Chúa ban ân sủng cho linh hồn thì linh hồn được siêu nhiên hóa, được trở nên một tạo vật mới đẹp lòng Thiên Chúa khả dĩ đáng Chúa yêu thương.

16. Tính chất nầy đối với ơn thường tại cũng như ơn hiện tại, ân sủng nâng linh hồn lên khỏi cấp bậc tự nhiên để có thể hành động một cách siêu linh. Nhưng đối với ơn thường tại thì tính chất nầy được gọi là sự công chính hóa, là ơn thánh hóa.
Công đồng Trentô quả quyết : "Nhờ sự công chính hóa mà tội nhân trở nên con cái yêu dấu của Thiên Chúa, được chuyển sang tình trạng ân sủng và nghĩa tử". Theo Đức Leo XIII thì "những người công chính được Kinh Thánh và các Giáo phụ gọi cách chính xác là được tái sinh, thụ tạo mới, thông phần bản tính Thiên Chúa, nên con cái Thiên Chúa và được thần hóa" (Thông điệp illud).
Ơn thường tại còn phát sinh công hiệu làm cho con người được thông phần bản tính Thiên Chúa ; làm cho phàm nhân nên con Thiên Chúa với quyền thừa hưởng gia nghiệp của Người ; cung cấp cho người công chính đời sống thiêng liêng hoàn bị, vì ân sủng là căn nguyên và cội rễ của mọi nhân đức ; làm cho ta được nghĩa với Thiên Chúa và đáng hưởng sự sống đời dời.
"Ân sủng trước tiên và chính yếu là hồng ân Thánh thần để công chính hóa và thánh hóa chúng ta. Ân sủng còn gồm các hồng ân Chúa Thánh Thần ban để liên kết chúng ta vào công trình của Người, ban cho chúng ta khả năng cộng tác vào công trình cứu độ tha nhân và làm phát triển Thân thể Chúa Kitô là Hội Thánh" (GLHTCG, 2003).

17. Còn tính chất của ơn hiện tại là một sự "chuẩn bị cho con người đón nhận ân sủng... Việc chuẩn bị cần thiết để khơi dậy và nâng đỡ sự cộng tác của chúng ta vào việc công chính hóa nhờ đức tin, vào việc thánh hóa nhờ đức mến" (GLHTCG, 2001).
"Thiên Chúa tự do khởi xướng và Người muốn con người đáp trả với tất cả tự do. Khi tạo dựng con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa không chỉ ban cho họ sự tự do mà còn ban khả năng nhận biết và yêu mến Người. Chỉ khi tự nguyện con người mới có thể bước vào hiệp thông. Thiên Chúa trực tiếp lay động con người" (GLHTCG, 2002).
Ơn hiện tại là sự khởi động của Thiên Chúa vào linh hồn ta để soi sáng trí khôn và củng cố lòng muốn của ta trong khi hành động hướng linh. Thánh Phaolô nói : "Không phải vì tự chúng tôi, chúng tôi có khả năng để nghĩ rằng mình làm được gì, nhưng khả năng chúng tôi là do ơn Thiên Chúa" (2Cr 3,5) ; "Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người" (Pl 2,13)
Ơn hiện tại không những là chuẩn bị cho việc đón nhận ân sủng, mà còn bảo tồn và tăng thêm ân sủng đã lĩnh nhận. Chúa Giêsu đã xác nhận : "Thầy là cây nho, chúng con là ngành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái" (Ga...).
Chúng ta có thể hiểu ân sủng là một sức mạnh thiêng liêng Chúa ban để siêu nhiên hóa linh hồn chúng ta, như lời Kinh Thánh : "Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần trí mới vào lòng các ngươi ... Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thực hành" (Ez 36,26-27). "Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh của Đấng Tạo Hóa để được thông hiểu" (Cl 3,10). "Vì thế, anh em..., phải đổi mới trong tâm trí anh em và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa, để thật sự sống công chính và thánh thiện" (Ep 4...24). "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5).
Thánh I-nha-xi-ô tử đạo dạy rằng : ân sủng thay đổi và cải biến chúng ta đến độ chúng ta trở thành người mang Chúa Kitô, mang Thiên Chúa (Christiferi, Deiferi). Thánh Grêgoriô Nyssênô cho ân sủng là họa ảnh Thiên Chúa được in vào (linh hồn) ta, ở lại trong ta.

˜ ™ @ ˜ ™


CHƯƠNG IV
SỰ PHÂN BIỆT ÂN SỦNG

§1. Ơn thánh sủng và đoàn sủng

18. Ân sủng duy chỉ có một loại, nhưng theo cách Thiên Chúa ban cho con người, và theo công hiệu của ân sủng, chúng ta có thể phân biệt có hai thứ ân sủng : ơn thánh hóa hay thánh sủng và ơn đoàn sủng hay đặc sủng.
Ơn thánh sủng (gratia sanctificans) nhằm thánh hóa chính con người lĩnh nhận ; trong khi ơn đoàn sủng (charisma) nhằm làm cho con người lĩnh nhận thánh hóa kẻ khác.

19. Như thế, người còn mắc tội không thể có ơn thánh hóa, nhưng có thể được ban ơn đoàn sủng.
Người được ơn thánh sủng thì mọi nhân đức và việc làm của họ có khả năng sinh hiệu quả thiêng liêng cho chính họ và cho kẻ khác nữa.
Ơn đoàn sủng có thể được ban cho một người hay một tập thể. Ơn đoàn sủng giúp kẻ lĩnh nhận thực hành các việc cứu rỗi kẻ khác. Thánh Phaolô đã liệt kê các đặc sủng như sau : sự khôn ngoan, sự thông minh, lòng tin mạnh, ơn chữa bệnh, ơn nói tiên tri, ơn ngôn ngữ (nói tiếng lạ).

20. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo giải thích : "Ngoài ra, còn có các ân sủng đặc biệt gọi là đặc sủng, theo từ Hy lạp mà thánh Phaolô sử dụng, có nghĩa là đặc ân, quà tặng nhưng không, ân huệ. Dù có đặc tính nào đi nữa, đôi khi là ngoại thường, như ơn làm phép lạ, hay nói tiếng lạ, các đặc sủng cũng đều qui hướng về ơn thánh hóa và có mục đích phục vụ lợi ích chung của Hội thánh. Các đặc sủng đều phục vụ cho đức mến để xây dựng Hội thánh. (GLHTCG 2003).

21. Trong các đặc sủng, phải nêu lên các ơn chức phận được ban cho người thi hành các bổn phận của đời sống kitô hữu và các thừa tác vụ trong lòng Hội thánh :
"Chúng ta có những đặc sủng khác nhau tùy theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Ai được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Ai được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai được ơn giảng dạy, thì hãy giảng dạy. Ai được ơn khuyên bảo, thì hãy khuyên bảo. Ai chia cơm sẻ áo thì phải thật lòng. Ai chủ tọa thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì hãy vui vẻ mà làm" (Rm 12,6-8).

§2. Ơn hoạt động và ơn cộng tác

22. Đã là ân sủng thì chỉ do một mình Thiên Chúa là Đấng ban ơn. Khi Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng trí tuệ và khởi động ý chí con người chúng ta để chúng ta có hành vi siêu nhiên : đó là ơn hoạt động, vì chỉ một mình Thiên Chúa hoạt động trong con người.
Sau khi được khởi động, con người dùng ý chí tự do của mình để hành động hợp với thánh ý Thiên Chúa ; hành động nầy tuy là của con người, nhưng đã được Thiên Chúa trợ giúp, trường hợp nầy ân sủng Chúa ban gọi là ơn cộng tác.
Sách Giáo lý giải thích như sau : "Thiên Chúa hoàn thành nơi ta điều Người đã khởi sự "vì Người khởi sự bằng cách tác động thế nào để chúng ta ước muốn, và Người hoàn thành bằng cách hợp tác với ý muốn đã được hoán cải của chúng ta" (T.Augustinô, 17) :
"Chúng ta cũng làm việc, nhưng chỉ cùng làm với Thiên Chúa, Đấng đang hoạt động. Thiên Chúa giàu lòng thương xót đi bước trước để chữa lành chúng ta và một khi chúng ta được chữa lành, Người vẫn dõi theo để chúng ta được tác sinh ; Thiên Chúa giàu lòng thương xót đi bước trước để kêu gọi chúng ta, Người vẫn dõi theo chúng ta để chúng ta được vinh quang ; Thiên Chúa giàu lòng thương xót đi bước trước để giúp chúng ta sống theo lòng nhân hậu, Người vẫn dõi theo chúng ta để chúng ta sống mãi với Người ; vì không có Người, chúng ta chẳng làm được gì"(T Augustinô, 31).

§3. Ơn đầy đủ và ơn hiệu nghiệm

23. Xét theo hiệu quả, ân sủng còn có thể gọi là ơn đầy đủ ơn hiệu nghiệm. Ơn đầy đủ (gratia suffi-ciens) cho ta khả năng thể hiện những hành vi phần rỗi ; ơn hiệu nghiệm (gratia efficax) tạo ra thực sự hành vi phần rỗi.
a. Dù loài người sa đọa và mắc phải tội nguyên tổ, thì Thiên Chúa vẫn thực sự và thành thực muốn mọi người được cứu rỗi. Chúa không chỉ muốn cho những người được tiền định, mà còn cho cả mọi người được cứu rỗi.
Trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội "Ánh Sáng muôn dân", Công Đồng Vaticanô II đã nhắc lại : "Người (Thiên Chúa) không bỏ rơi những ai vì liên đới với Ađam mà đã sa ngã, nhưng luôn trợ giúp để họ đạt tới ơn cứu độ" (GS, 2).
Cũng trong Hiến chế nầy, khi nói về Dân Thiên Chúa, Công Đồng viết : " Mọi người đều được mời gọi vào sự hiệp nhất của Dân Thiên Chúa..., sau cùng tất cả mọi người không trừ ai đều được ơn Thiên Chúa kêu mời lĩnh nhận phần rỗi" (GS, 13)
b. "Đối với những ai qua những hình bóng đang tìm kiếm một Thiên Chúa mà họ không biết... và vì Người là Đấng Cứu Độ hằng muốn cho mọi người được cứu rỗi.
...Những ai không do lỗi của mình mà chưa đạt đến sự nhận biết minh nhiên về Thiên Chúa, nhưng nhờ ơn Thiên Chúa, vẫn cố gắng sống đời chính trực, thì Thiên Chúa quan phòng không từ chối ban ơn trợ giúp cần thiết để cứu độ những người ấy" (GS 16)
Vì thế, Hội thánh đã xác quyết : Ngôi Lời đã bỏ trời xuống thế vì mọi người và vì phần rỗi chúng ta (không trừ ai). Ý muốn phổ quát ấy chứng tỏ Chúa ban ơn đầy đủ cho mọi người để họ được cứu rỗi.

24. 1/ Chúa muốn cho mọi người công chính một ân sủng đủ để thực thi các giới răn Chúa (Định Tín).
Cần phân biệt hai thứ ân sủng vừa đủ : ân sủng vừa đủ tức khắc (proxime sufficiens) là ơn trực tiếp đem lại cho ta khả năng làm một việc phần rỗi nhất định ; và ân sủng đủ gián tiếp để giúp ta có khả năng thể hiện một hành vi chuẩn bị cho được ân sủng thực sự : ơn biết cầu xin là thứ ân sủng đủ gián tiếp.
Công đồng Orenge II (D. 200) và Công đồng Trentô đã nhắc đến giáo lý trên đây. Công đồng Trentô dạy : "Kẻ nào cho rằng người công chính dầu có được ân sủng hỗ trợ nữa, cũng không thể thực thi các giới răn của Chúa, sẽ bị tuyệt thông" (D.828).
Lời Chúa cũng làm chứng cho giáo lý nầy : "Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương" (Tv 33,18).

25. 2/ Thiên Chúa đã cho tội nhân ân sủng đủ (ít là đủ gián tiếp) để trở lại. Chúa không cất hết hoàn toàn ân sủng, dù là tội nhân cố chấp và chai đá.
Công đồng Latran IV (1215) đã dạy : dù là những tội nhân trọng tội "cũng có thể được cải tạo nhờ sự sám hối chân thành" (D. 430). Giáo huấn đó giả thiết một thứ ơn đủ để trở lại.
Lời Chúa trong Kinh Thánh đã nhiều lần kêu gọi tội nhân sám hối : điều đó giả thiết khả năng sám hối nhờ có ơn Chúa. "Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó trở lại và được sống" (Ez 33,1).
3/ Chúa cho mọi người dầu là ngoại giáo tiêu cực ơn đủ để được cứu độ. (x. 23,b)
Đức Giáo hoàng Alexandre VIII năm 1650 đã kết án những luận đề của Jansénisme cho rằng người ngoại giáo, người Do thái, người bè rối không nhận được thứ ân sủng nào cả. (D, 1294-1295).
Thánh Kinh đã từng chứng tỏ Chúa muốn cho mọi người được ơn cứu độ. "Chúa không muốn cho bất cứ ai phải hư đi, nhưng là hết thảy có phương tiện hối cải" (2Pr 3,9). Vậy không lẽ gì Chúa lại không ban cho hối nhân ơn cần và đủ để được cứu độ.

26. 1/ Ơn hiệu nghiệm được hiểu là ơn tạo nên hành vi thực sự. Thông thường tiếng hiệu nghiệm có thể chỉ tính cách một năng lực, hoặc chỉ sự thực thi một công việc, có khi chỉ kết quả của một công việc.
2/ Khi được ban ơn, con người với ý chí tự do, cộng tác với ý muốn của Thiên Chúa, phát sinh những hành vi siêu nhiên, thì đó là ơn hiệu nghiệm. Nói cách khác : Với ơn hiệu nghiệm, Thiên Chúa phát sinh trong ta những hành vi siêu nhiên. Bởi vì "Thiên Chúa hoàn thành nơi ta điều Người đã khởi sự" (GLHTCG,2001) ; "Thiên Chúa đặt trong con người khát vọng chân lý và điều thiện mà chỉ có Người mới có thể thỏa mãn" (GLHTCG, 2002).
3/ Thánh Kinh cũng làm chứng : "Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người" (Pl. 2,13); "Xin Thiên Chúa ban cho anh em mọi ơn lành để có sức thi hành thánh ý Người. xin Người thực hiện nơi anh em điều đẹp lòng Người" (Dt 13,20-21) ; "Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người" (1Cr 12,6).
4/ Công đồng Orenge cũng như Trentô đều xác định rằng Thiên Chúa là căn nguyên mọi tư tưởng lành thánh, mọi cảm tình tốt lành và mọi công trình mang ơn cứu độ, mà con người thực hiện để sống đời đời.
5/ Một hành vi siêu nhiên được phát sinh luôn luôn có sự tham gia của ơn vừa đủ và ơn hiệu nghiệm, khi ban ơn vừa đủ để hành động thì Thiên Chúa cũng dự tính ban ơn hiệu nghiệm để có thể thực hiện ; và nếu con người không cản trở, thì sẽ nhận được ơn hiệu nghiệm.

CHƯƠNG V
CÔNG HIỆU CỦA ÂN SỦNG

27. Như ta đã biết, ân sủng có thể là ơn hoạt động và ơn cộng tác. Hiệu qủa của ơn hoạt động là sự công chính hóa ; hiệu quả của ơn cộng tác là lập công.

§1. Công chính hóa.

I. Ý nghĩa của sự công chính
1/ Nghĩa gốc của từ "công chính" là công bình (justitia), là một nhân đức luân lý và nền tảng. Nhân đức nầy làm cho ta thấy lẽ phải trong sự công bình với người khác (tư nhân, tập thể, xã hội...)
2/ Theo nghĩa bóng, "công chính" chỉ sự ngay thẳng nội tâm của con người biết xử trí đúng đắn với bản thân, với tha nhân, với Thiên Chúa.
3/ "Công chính hóa" có thể hiểu theo nghĩa chủ động để chỉ hành vi Thiên Chúa công chính hóa tội nhân ; có thể hiểu theo nghĩa thụ động để chỉ công hiệu của tác động của Thiên Chúa biến đổi tội nhân thành chính nhân.
II. Những yếu tố kết thành sự công chính hóa
Từ tình trạng mất nghĩa với Thiên Chúa đến tình trạng được ban ơn, tội nhân phải trải qua một sự biến chuyển, trong đó có sự can thiệp của Thiên Chúa và của tự do con người. Thiên Chúa ban ơn, con người đón nhận, cộng tác bằng những hành vi cụ thể.

28. Vậy để được công chính hóa, cần phải đổi mới toàn diện con người nội tâm. Thánh Phaolô đã nhấn mạnh về sự đổi mới nầy : "...Vì thế, anh em hãy cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những đam mê lừa đảo, anh em hãy để Thánh Thần đổi mới tâm trí anh em, và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện" (Ep 4,22-24; 5,1-18); "... Vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi, và anh em đã mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa" (Cl 3,9-10).
Giáo hội, trong Công đồng Tridentinô, đã dạy : công chính hóa "không phải chỉ tha tội, mà còn thánh hóa và còn canh tân con người nội tâm, do việc tự ý lĩnh nhận ân sủng và các ân huệ, do đó con người bất chính trở thành công chính..."

29. Giáo lý Hội Thánh công giáo giải thích công chính hóa như sau :
Ân sủng của Chúa Thánh Thần có quyền năng công chính hóa chúng ta, nghĩa là thanh tẩy chúng ta sạch tội lỗi, và được "Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô" (Rm 3,22) và nhờ bí tích Thánh Tẩy {Tôma Aquinô 1-2; 90,4} :
Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, đó niềm tin của chúng ta. Vì biết rằng : một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, vì được kết hợp với Đức Giêsu Kitô" [Rm 6,8-11] (GLHTCG, 1987).

30. Công trình đầu tiên Chúa Thánh Thần thực hiện nơi con người là sự hoán cải, nghĩa là cho họ nên công chính như lời rao giảng của Đức Giêsu từ buổi đầu của Tin mừng : "Anh em hãy sám hối vì triều đại Thiên Chúa đã đến gần" (Mt 4,17). Dưới tác động của ân sủng con người quay về với Thiên Chúa và từ bỏ tội lỗi, nhờ đó được Thiên Chúa ban ơn tha thứ và sự công chính. "Như thế, công chính hóa không chỉ là tha tội, mà còn thánh hóa và canh tân con người nội tâm" {Trentô D. 1528} (GLHTCG, 1989).
Ơn công chính hóa giải thoát con người và thanh luyện tâm hồn khỏi tội lỗi nghịch với tình yêu Thiên Chúa. Ơn công chính hóa xuất phát từ sáng kiến của Thiên Chúa giàu lòng thương xót và hằng tha thứ. Khi được công chính hóa, con người được hòa giải với Thiên Chúa, được giải phóng khỏi ách tội lỗi và được chữa lành. (sđd. 1990).
Ơn công chính hóa còn là việc chúng ta đón nhận sự công chính Chúa ban cho, nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. sự công chính ở đây chỉ sự công minh chính trực của tình yêu Thiên Chúa. Cùng với ơn công chính hóa, Thiên Chúa ban cho ta đức tin, cậy, mến, và ơn biết phục tùng thánh ý Chúa (sđd. 1991)

31. Chúng ta được công chính hóa nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô, Đấng đã dâng mình trên Thánh Giá làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa, và Máu Người trở nên phương tiện đền tội cho mọi người (sđd. 1992).
Ơn công chính hóa mở đầu cho sự cộng tác giữa ân sủng Thiên Chúa và sự tự do của con người. Về phía con người, ơn công chính hóa được biểu lộ qua sự ưng thuận tin theo lời Thiên Chúa mời gọi hoán cải, và qua sự cộng tác bằng đức mến vào tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng khởi xướng và gìn giữ sự ưng thuận đó (sđd. 1993).
Ơn công chính hóa là công trình tuyệt hảo của tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ trong Đức Giêsu Kitô và được Chúa Thánh Thần ban tặng (sđd. 1994).
Chúa Thánh Thần là vị Thầy nội tâm. Ơn công chính hóa khai sinh "con người nội tâm" và đem lại ơn thánh hóa toàn thể con người :
"Trước đây, anh em đã dùng chi thể của anh em làm nô lệ những điều ô uế và sự vô luân, để trở thành vô luân, thì nay, anh em cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên thánh thiện... Giờ đây, anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ của Thiên Chúa, anh em thu được kết quả là được trở nên thánh thiện, và rốt cuộc được sống đời đời"{Rm 7,22; Ep 3,16} (sđd. 1995).

§2. Lập công hay công phúc

I.- Ý niệm về công phúc (công trạng)
32. Cộng đoàn hay tập thể phải "trả công" cho hành động của một thành viên : thưởng khi có công, phạt khi có tội. Đây là đòi hỏi của đức công bình vì phù hợp với nguyên tắc bình đẳng. Hành động đáng thưởng được gọi là "công trạng" của một người. (GLHTCG 2006)
Theo đúng nghĩa, con người không có công trạng gì trước mặt Thiên Chúa. Giữa Thiên Chúa và con người có một sự chênh lệch vô tận, vì tất cả những gì chúng ta có đều nhận được từ Đấng Sáng Tạo. (sđd. 2007).
Thế nhưng, "vì Thiên Chúa đã tự do an bài cho con người cộng tác với ân sủng nên trong cuộc sống, người kitô hữu có thể lập được công trạng trước mặt Thiên Chúa" (sđd. 2008).
Như thế, lập công là điều có thể, và chúng ta phải ra sức lập công để đáp lại ân sủng do lòng thương yêu vô cùng của Thiên Chúa hằng kêu gọi chúng ta vào tham dự tình yêu của Người. Kinh Thánh nói nhiều về phần thưởng Thiên Chúa dành cho những ai kính sợ và yêu mến Người : "Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao" (Mt 5,13) ; "...Tôi đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ đợi vòng hoa dành cho người công chính" (2Tm 4,7-8) ; "Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng trong cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lĩnh phần thưởng sự sống Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Người" (Gc 1,12) ; "Vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người,... và Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm" (Mt 16,27).

33. Điều quan trọng.- Như chúng ta biết, con người không có công trạng gì trước mặt Thiên Chúa, vì giữa con người và Thiên Chúa là một vực thẳm phân biệt. Do đó Thiên Chúa không có bổn phận gì đối với con người. Sở dĩ việc lành của con người đáng công trước mặt Chúa chính vì Thiên Chúa đã an bài, đã qui định cho con người được lĩnh công và phần thưởng, theo lời Người đã hứa ; mà lời hứa của Thiên Chúa thì hiệu nghiệm.
Lời hứa của Thiên Chúa cũng được Thánh Kinh xác nhận : "Và đây là điều mà chính Đức Kitô đã hứa ban cho chúng ta : sự sống đời đời"(1Ga 2,25) ; "...bởi Chúa hứa ban sự sống hiện tại cũng như tương lai cho người có lòng đạo đức" (1Tm 4,8) ; "Anh em đừng trở nên uể oải, nhưng hãy bắt chước những người nhờ có đức tin và lòng kiên nhẫn mà được thừa hưởng các lời hứa" (Dt 6,12).
Tắt rằng, công trạng các việc lành của chúng ta là hồng ân do lòng nhân hậu của Thiên Chúa. "Ân sủng đã đi bước trước, giờ đây chúng ta phải đền đáp những gì đã lĩnh nhận...Công trạng là hồng ân của Thiên Chúa"(T Augustinô)

II. Những điều kiện của công phúc siêu nhiên.
34. Để một hành vi đáng công trước mặt Chúa, phải có đủ những điều kiện sau :
1/ Hành vi phải do ý muốn tự do của con người, và phát xuất bởi đức mến ; việc lành phải nhắm tôn vinh Thiên Chúa, và mưu ích cho phần rỗi linh hồn.
2/ Người lập công phải ở trong tình trạng ân sủng. Đó là điều Giáo hội ấn định và hợp lẽ tự nhiên. Phần thưởng là phúc trường sinh. Ai không sống trong ân sủng là người mất nghĩa với Thiên Chúa ; vì thế không thể lập công trước mặt Thiên Chúa như lời Thánh Kinh : "Thôi đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa... Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn ; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu" (Is 1,13-15 ; Am 5,21-23 ; Ml 1,10).
3/ Người lập công phải còn sống trên đời. Vì khi linh hồn lìa khỏi xác cũng là lúc kết thúc thời lập công : "...đã đến giờ tôi phải ra đi... giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính" (2Tm 4,6-8). Trong dụ ngôn về người phú hộ và ông Lazarô, Chúa Giêsu cũng nói về lúc chấm dứt thời lập công (x. Lc 16,19-31). Thánh Phaolô cũng viết : "Tất cả chúng ta sẽ được đưa ra ánh sáng, trước tòa Đức Kitô, để mỗi người lĩnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu khi còn ở trong thân xác" (2Cr 5,10).

35. Trên bình diện ân sủng, không ai lập được công trạng để đáng lĩnh nhận ân sủng tiên khởi mở đầu cho các ơn hoán cải, tha thứ và công chính hóa, vì sáng kiến là do Thiên Chúa. Sau đó dưới tác động của Chúa Thánh Thần và đức mến, chúng ta mới có thể lập công để đáng lĩnh nhận cho mình và cho tha nhân, những ân sủng hữu ích cho việc thánh hóa, gia tăng ân sủng và tình yêu, cũng như đạt được đời sống vĩnh cửu (GLHTCG 2010a).

36. Cũng như phúc trường sinh là phần thưởng cho người công chính, những điều thiện thế trần có thể là phần thưởng cho những hành vi đoan chính. Lịch sử dân Do thái thời Cựu Ước chứng tỏ là bao lâu dân giữ lề luật thì được an cư lạc nghiệp, nhưng khi dân vi phạm luật Thiên Chúa thì phải chịu nhiều tai ương.
"Theo sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể lập công để đáng lĩnh nhận những lợi ích trần thế như sức khỏe, tình bạn. Kitô hữu vẫn nguyện xin Thiên Chúa ban cho mình các ân sủng và những lợi ích nầy. Lời cầu nguyện có thể làm Thiên Chúa thương, ban ân sủng cần thiết giúp ta thực hành những việc đáng thưởng công" (GLHTCG, 2010b).

"Đến muôn đời, con cảm tạ ơn Chúa"



MỤC LỤC

CHƯƠNG I : Ý NGHĨA CỦA ÂN SỦNG *
CHƯƠNG II : SỰ CẦN THIẾT CỦA ÂN SỦNG *
1. Tội nhân cần ân sủng để được hoán cải *
2. Người công chính cần có ân sủng để tránh tội *
3. Người công chính cần có ân sủng để làm lành lánh dữ *
4. Người công chính cần có ân sủng để bền chí làm việc
lành *
CHƯƠNG III : BẢN CHẤT CỦA ÂN SỦNG *
CHƯƠNG IV : SỰ PHÂN BIỆT ÂN SỦNG *
1. Ơn thánh sủng và đoàn sủng *
2. Ơn hoạt động và ơn cộng tác *
3. Ơn đầy đủ và ơn hiệu nghiệm *
CHƯƠNG V : CÔNG HIỆU CỦA ÂN SỦNG *
1. Công chính hóa. 25
I. Ý nghĩa của công chính hóa 25
II. Những yếu tố kết thành sự công chính hóa *
2. Lập công hay công phúc 29
I. Ý niệm về công phúc *
II. Những đieău kieôn cụa cođng phúc sieđu nhieđn .............. 32

KHẢO LUẬN VỀ ÂN SỦNG

Về ân sủng, thì tùy theo chủ trương và mục đích, các nhà thần học bàn tới trong nhiều phần của thần học.
Một số nhà thần học tân trào đặt vấn đề ân sủng vào phần phụ trương của khảo luận về mầu nhiệm Nhập Thể. Nhưng không phải mọi ơn nghĩa đều do công cứu chuộc. Vả lại khi bàn về ân sủng, phải lấy cứu cánh chứ không lấy tác căn làm yếu tố mô thể. Thực vậy, yếu tố mô thể của ân sủíng là cất nhắc mọi hoạt động của chúng ta, để hoạt động đáng công đạt tới hạnh phúc đời đời tức là thị kiến thanh nhàn.
Trong phần luân lí, thánh Tôma cho ân sủng là ngoại tại của hành vi siêu nhiên, vì mặc dầu ân sủng là thể thức phẩm định linh hồn cách nội tại, nhưng tác căn của ân sủng là Thiên Chúa. Còn khi bàn về chính ân sủng như thiên chức phẩm định linh hồn và các tài năng, thì ngài đã nghiên cứu theo cấu tố nội và ngoại của ân sủng. Về nội căn, ngài bàn về thực hữu, cần thiết, bản tính và phân loại ân sủng ; về ngoại căn thì bàn về nguyên nhân, công hiệu của ân sủng : công chính hóa, công hiệu chính ; công trạng, công hiệu thứ yếu.

ĐOẠN I
SỰ CẦN THIẾT HAY THỰC HỮU CỦA ÂN SỦNG

Đoạn này sẽ bàn tới :
- Quan niệm về ân sủng
- Những lạc thuyết
- Những tình trạng khả dĩ và khác nhau của nhân loại.
- Chính sự cần thiết đặc thù của ân sủng.

Chương I
QUAN NIỆM VỀ ÂN SỦNG

I. Định nghĩa
1.- Từ nguyên. - Ta dùng tiếng ân sủng để dịch từ gratia. chữ này theo Hilạp là Kharis có nhiều nghĩa :
a. Ân huệ, hảo ý
b. Hồng ân, sự ban tặng nhưng không
c. Lòng biết ơn và cảm mến vì ân huệ đã được
d. Duyên dáng, vẻ đáng yêu, vẻ đẹp của một thực tại cảm hóa ai, yêu mến và thi ân. (Tv 44,3).
Bốn ý nghĩa đó liên quan với nhau.
Áp dụng vào những tương quan giữa Thiên Chúa và tạo vật có lí trí, tiếng ân sủng vẫn giữ được ba ý nghĩa trên. Còn nghĩa bốn thì không, vì nơi Thiên Chúa, không giả định sự tốt lành, hoàn thiện và vẻ đẹp nơi thụ tạo ; trái lại chính Thiên Chúa là căn nguyên và nguồn gốc của sự tốt lành hoàn thiện.
Ba ý nghĩa trên áp dụng vào cả phạm vi tự nhiên cũng như siêu nhiên. Nhưng ở đây chỉ bàn về ơn siêu nhiên.
2. Thực định : Ân sủng siêu nhiên là một hồng ân siêu nhiên, Thiên Chúa ban cho tạo vật có lí trí cách nhưng không để tạo vật đạt tới sự sống đời đời.
Một hồng ân siêu nhiên vì vượt trên mọi yêu sách của bản tính tự nhiên, hồng ân cho con người được thông dự vào bản tính Thiên Chúa. Hồng ân lại được ban một cách nhưng không, để giúp con người đạt tới cứu cánh siêu nhiên là hạnh phúc vĩnh cửu, tức là thị kiến thanh nhàn.
Nói hồng ân siêu nhiên để phân biệt với hồng ân tự nhiên ; như sự sống, sự tự do... thì không thuộc quyền đòi hỏi của cá nhân, nhưng là những điều bản tính loài người có thể đòi hỏi ; trái lại những hồng ân siêu nhiên thì không thuộc quyền đòi hỏi của cá nhân và của bản tính, vì chẳng những là đi trước, không lệ thuộc vào công trạng, lại còn vượt quá mọi yêu sách và xu hướng của bản tính thụ tạo.
II. Các thứ ân sủng. 1. Ân sủng được phân thành :
- ơn tự hữu (gratia increata), là chính ý muốn nhân hậu của Thiên Chúa ban ơn cho ta. Như ơn Ngôi Hiệp : ơn mà Ngôi Hai ban cho bản tính nhân loại nơi Chúa Giêsu.
- ơn thụ tạo (gratia creata) là công hiệu của ơn tự hữu, khác với Thiên Chúa và được nhận vào tạo vật.
2. Ân sủng được phân biệt :
Ơn bên trong và ơn bên ngoài, tùy được nhận vào trong hay ngoài chủ thể. Ơn mặc khải, lề luật Thiên Chúa, gương sáng của chư thánh, là ơn bên ngoài.
Ơn bên trong có hai thứ : ơn hiện tại hay hiện tại (gratia actualis) và ơn thường tại hay thường tại (gratia habitualis).
Ơn hiện tại, là sự trợ giúp siêu nhiên và tạm thời để tài năng linh hồn hành động trổi vượt và thần linh.
Ơn thường tại, là ơn Chúa ban trong linh hồn một cách bền vững theo lối tập quán, nhờ đó yếu tính và các tài năng linh hồn được cất nhắc mộüt cách bền vững, khả dĩ sống và hoạt động một cách siêu nhiên.

Chương II
NHỮNG LẠC THUYẾT VỀ ÂN SỦNG

Các lạc thuyết về ân sủng có thể quy về hai nhóm : nhóm bất cập và nhóm thái quá.
I. Nhóm bất cập.
Nhóm này gồm có Pelagius và Á-Pêlage.
1. Pelagius : Để phản ứng chống phái Manichoeô và những kitô hữu, nại vào sự yếu đuối của bản tính nhân loại mà bầu chữa cho tội lỗi của mình, Pelagius căn cứ vào sự lạc quan của phái Khắc kỷ và những người Do thái, quá đề cao sức mạnh của bản tính tự nhiên, đi đến phủ nhận sự cần thiết của ân sủng.
a. Sự tự do ý chí- nhờ đó con người thoát khỏi Thiên Chúa - con người đã có khả năng làm lành lánh dữ. Nếu không có khả năng tránh tội thì không thể có tự do ý chí Trong tự do ý chí phải phân biệt ba điều : khả năng (posse); ưa muốn (velle); và hành động (agere). Khả năng là do Thiên Chúa, nhưng ước muốn và hành động là thuộc quyền tự do ý chí
b. Do quan niệm tự do ý chí, ta luận ra rằng con người có thể tự sức mình tránh tội và làm việc lành.
c. Vì thế bản tính loài người lành mạnh và cường tráng, với tình trạng hoàn toàn quân bình.
d. Vì thế không có tội tổ tông truyền; những trẻ sơ sinh ở trong một trạng thái như ông Ađam trước khi sa ngã. Do đó chúng không cần bí tích rửa tội..
e. Đam mê và sự chết và những đau khổ khác hiện nay nhân loại phải chịu không phải là hình phạt tội lỗi, mà là tình trạng tự nhiên của bản tính nhân loại. Vì thế, trước khi sa ngã, Ađam cũng phải chịu những đau khổ ấy.
f. Giáo phải Pélage không phân biệt điều thiện tự nhiên và siêu nhiên, và quả quyết rằng, con người do sức tự nhiên có thể lập công xứng đáng (de condigno) để được ân sủng và sự sống vĩnh cửu, và tuân giữ luật Chúa trọn vẹn.
g. Ân sủng hoặc tuyệt nhiên không cần, hoặc cùng lắm, chỉ cần để biết điều phải làm, sự phải tránh cho dễ dàng hơn ; nhưng giáo phái Pélage chối mọi ân sủng tăng cường nghị lực giúp ta được tự do làm lành lánh dữ.
2. Thời cận đại, những người Duy lý, Duy thế tục, Duy tự nhiên cũng theo thuyết Pélage chủ trương tính bản thiện bẩm sinh của con người (nhân chi sơ tính bản thiện).
Lạc thuyết này đã bị Công Đồng Carthage, Ephèse, Orange, Trident. Vatican I luận phi.
3. Á-Pélage (semipelagianismus). Lạc thuyết này khác với lạc thuyết Pélage ở chỗ công nhận :
a. Sự thực hữu của tội tổ tông truyền .
b. Sự cần thiết tuyệt dối của ân sủng bên trong để con người được công chính hóa, để làm việc lành và để đáng được sống vĩnh cửu.
c. Sự cần thiết của ơn cứu chuộc và nhiệm tích thánh tẩy. Nhưng giống với Pélage, phủ nhận tính cách hoàn toàn nhưng không của ân sủng.
Quả thực trong việc phân phát ân sủng của Thiên Chúa, có hai cách xử trí : một là khác thường (extraordinaire) như trường hợp của thánh Matthêô, Phaolô, Mađalena..., trong những trường hợp này ân sủng đi trước tác động của sự tự do ý chí, như thế, ân sủng được ban một cách hoàn toàn nhưng không ; hai là thông thường, như trường hợp ông Giakêu, người trộm lành..., trong trường hợp này sự tự do ý chí đi trước ân sủng, thứ ân sủng được ban tương xứng với công nghiệp và với sự chuẩn bị của sự tự do ý chí.
Theo lạc thuyết Á-Pélage, việc cứu độ được khởi sự nhờ sức tự nhiên của sự tự do ý chí nhưng được kết thúc nhờ ân sủng. Việc khởi sự gồm các hành vi : nhìn nhận sự khốn nạn riêng, nhìn nhận sự cần thiết phương dược thần linh, mong muốn phần rỗi, cầu xin cho được cứu độ. Và sau khi nhận được ân sủng, con người có thể bền vững làm lành lánh dữ mà không cần ơn Chúa trợ giúp.
Lạc thuyết Á Pélage đã bị Công Đồng Orange luận phi.
4. Thệ phản (Luther, Calvinus). Thuyết này chủ trương sự công chính nguyên thủy là điều cốt yếu của bản tính nhân loại. Do đó sau khi sa ngã (tức là mất sự công chính nguyên thủy). Bản tính con người bị hư hoại (biến tính, nhiễm độc) lại hoàn toàn mất tự do ý chí. Do đó tội lỗi là một điều gì nội tại thiết thân của con người, kể cả những việc chuẩn bị để được ân sủng cũng như những việc người ấy thực hiện sau khi đã được công chính, đều là tội lỗi. Sự công chính chỉ hệ tại con người không bị quy trách về những việc mình làm ; trước mặt Thiên Chúa con người chỉ có thể sinh ra những tội lỗi.
II. Nhóm thái quá.
1. Baius dạy rằng con người tuyệt nhiên không thể làm việc lành nếu không có đức ái. Do đó sự tự do ý chí nguyên nó chỉ có thể làm ta sa ngã phạm tội. Nếu không có ân sủng, con người không thể tránh tội lỗi, cũng không thể lướt thắng một thử thách nào hết. Vì thế mọi hành vi tội nhân đều là tội. Thuyết Baius bị thánh Piô V (1567), Đức Gegoriô XIII (1579) và Đức Urbanô VIII (1641) luận phi.
2. Jansenius cho rằng, để một hành vi là tốt , cần có ơn đức tin. Bởi vậy mọi hành vi của người ngoại giáo đều là tội lỗi. Lạc thuyết này đã bị Đức Innocentê X (1653) và Đức Alexandre VIII (1690) luận phi. M. Quesnell cũng chủ trương những sai lạc như Jansenius và đã bị Đức Clêmentê XI (1713) luận phi.

Chương III
NHỮNG BẬC KHÁC NHAU CỦA NHÂN LOẠI
TRONG TƯƠNG QUAN VỚI ÂN SỦNG
Mọi người trong nhân loại có thể ở trong một của năm bậc sau đây :
1. Bậc bản tính tự nhiên thuần túy (status naturae purae). Trong bậc này, bản tính được dựng nên không tội lỗi, cả tội tổ tông truyền và tội riêng, cũng không ân sủng : ngoại nhiên cũng như siêu nhiên ; biết khuynh hướng về Thiên Chúa như Chúa tể vũ trụ, và được những trợ giúp thích hợp để đạt tới những mục đích tự nhiên ; lại vương phải dục vọng thác loạn, vì với sức tự nhiên, dục vọng hạ cấp không hoàn toàn vâng phục lý trí, có khi làm cho lý trí ra mù quáng, ngoài ra còn có thể vương phải tội lỗi.
Đây là bậc hoàn toàn giả tưởng, vì không bao giờ thực hữu.
2. Bậc bản tính vẹn toàn (status naturae integrae). Đây là bậc nguyên tổ Ađam được sống với ơn ngoại nhiên khi Thiên Chúa tạo thành. Trong bậc này bản tính nhân loại được hoàn toàn lành mạnh, nhưng không có ơn siêu nhiên vì chưa được cất nhắc lên bậc siêu nhân.
3. Bậc bản tính được cất nhắc (status naturae elvatae). Là bậc, ngoài những hồng ân tự nhiên và ngoại nhiên, có những ơn siêu nhiên đích thực - như ơn thánh hóa, các nhân đức phú bẩm và những ơn Chúa Thánh Thần. Đây là bậc nguyên tổ thừa hưởng trưóc khi sa ngã.
4. Bậc bản tính sa ngã (status naturae lapsae). Là tình trạng của con người sau khi nguyên tổ phạm tội , và mất ân sủng và mọi hồng ân ngoại nhiên, trở nên bất lực không thể đạt tới cứu cánh siêu nhiên. Về phần thượng, con người lìa bỏ Thiên Chúa ; về phần hạ, con người cảm nhận sự phản loạn của các đam mê.
5. Bậc của bản tính được sữa chữa, được cứu chuộc (status naturae reparatae vel redemptae).
Thiên Chúa không nỡ để loài người hư đi, đã quyết định cho Ngôi Lời nhập thể cứu chuộc con người, phục hồi con người trong tình trạng ân sủng và khả năng đạt tới cứu cánh. Con người nhờ công nghiệp của Đức Kitô, được tha thứ và được trả lại tình nghĩa với Thiên Chúa. Về phần thượng, dù trật tự, do tội lỗi phá vỡ cũng được lập lại ; còn về phần hạ, xác thịt vẫn phản loạn với linh hồn. Con người phải chiến đấu với đam mê, một cuộc chiến không giới tuyến, vì các đam mê luôn khuynh hướng con người về sự ác và tội lỗi.

Chương IV
SỰ CẦN THIẾT CỦA ÂN SỦNG

Cứ sức tự nhiên, con người không thể đạt tới cứu cánh siêu nhiên, trừ khi Thiên Chúa nhắc lên bậc siêu nhiên và ban ơn thánh hóa. Phương chi sau khi sa ngã, con người trở nên yếu đuối. Như thế chúng ta thấy ân sủng cần thiết như thế nào đối với con người.
Để nhận thức chân lý, để yêu mến Thiên Chúa, đó là hành động của tài năng linh hồn, vậy nếu không có sự hỗ trợ của Thiên Chúa là Tạo hóa khởi động thì thụ tạo không thể hành động được ...
Chúng ta chỉ bàn đến :
1. Ân sủng cần thiết để hối nhân được hối cải tội lỗi.
2. Ân sủng cần thiết để tránh lánh tội lỗi.
3. Ân sủng cần thiết để người công chính làm lành lánh dữ.
4. Ân sủng cần thiết để được bền vững trong điều thiện.

Tiết I. Sự cần thiết của ân sủng để hối cải tội lỗi.

Ý nghĩa của hối cải, hồi sinh - Ở đây hiểu "hối cải" là sửa mình, hồi sinh từ sự chết trong tội. Hối cải không có nghĩa là đình chỉ việc phạm tội, mà phải chổi dậy khỏi tội lỗi, là phục hồi những điều thiện đã đánh mất do tội lỗi. Tội trọng làm ta mất những điều thiện siêu nhiên như ơn thánh hóa, các nhân đức và những hồng ân khác kèm theo ; cả những điều thiện tự nhiên như việc lý trí tuân phục Thiên Chúa, những điều thiện luân lý, do việc tuân phục ấy phát sinh. Như vậy có hai thứ phục hồi :
1. Tự nhiên hay luân lý nhờ đó con người lấy lại được những điều thiện tự nhiên đã mất vì tội lỗi.
2. Siêu nhiên, độ trì nhờ đó con người sa ngã phục hồi được những điều thiện siêu nhiên bị tội lỗi tước đi.
Luận đề I (XLII).- Ơn thường tại (ơn thánh hóa) cần thiết tuyệt đối để người sa ngã có thể chổi dậy và hồi sinh siêu nhiên cách hoàn bị (đạt được công chính hóa)
Luận đề đưa ra chân lý trung gian giữa các lạc thuyết thái quá và bất cập. Montanus và Novatianus cho rằng có một số tội không thể tha, nên những người mắc phải không thể chỗi dậy. Trái lại, nhóm Pelage cho rằng : cứ sức tự nhiên con người sa ngã có thể trở lại.
Chứng minh :
1. Thánh Kinh : "Lạy Thiên Chúa xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con xin Ngài thanh tẩy" (Tv 51, 3-4) - "Xin dùng cành hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền ; xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết" - "Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xóa bỏ hết mọi lỗi lầm" (Tv 51,9.11) - "Bà sẽ sinh con trai và ông sẽ đặt tên con trẻ là Giêsu vì chính Người cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ"(Mt 1,12) - "Con Người sẽ đến để tìm và cứu những gì đã mất" (Lc 19,10) - "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian" (Ga 1,29) - "Thật vậy mọi người đã phạm tội và đã bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban nhưng không, nhờ công nghiệp được cứu chuộc trong Đức Kitô" (Rm 3, 23-24). "Tôi không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công chính do lề luật thì việc Đức Kitô chịu chết ra vô ích" (Gl 2,21) - "... Nhưng vì Người thương xót nên Người đã cứu chúng ta, nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và được đổi mới (.....). Như vậy một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng" ( Tt. 3,4-7).
2. Đạo lý của Giáo Hội . Giáo Hội đã xác định :
a. Không ai có thể chổi dậy khỏi bất cứ tội nào, nếu không được lòng nhân hậu của Thiên Chúa hỗ trợ trước.
b. Tính tự nhiên và lề luật không đủ để vực ta dậy khỏi tội tổ tông truyền.
c. Nhưng cần phải có ân sủng của Thiên Chúa.
d. Sau hết, chỉ nhờ ơn thánh hóa của nhiệm tích hòa giải, tội nhân mới có thể tẩy rửa mình khỏi tội đã phạm.
3. Lẽ thần học- Sự chổi dậy siêu nhiên bao hàm sự sửa chữa ba điều ác do tội lỗi gây ra :
a. Vết nhơ tội khiên.
b. Sự thác loạn của bản tính tự nhiên.
c. Án phạt đời đời.
Vậy chắc chắn nếu không có ơn thánh hóa, không ai có thể sửa chữa được những điều ác đó.
Cho nên ơn thánh hóa tức ơn thường tại cần thiết tuyệt đối để người sa ngã có thể chổi dậy và hồi sinh siêu nhiên một cách hoàn bị.
Một khi mất ơn thánh hóa, linh hồn người ta mắc phải vết nhơ tội lỗi, và tự nhiên có sự thác loạn trong linh hồn. Sau nữa án phạt đời đời là hậu quả của tội trọng tức là lìa xa Thiên Chúa.
***

Tiết II. Sự cần thiết của ân sủng để tránh tội lỗi.
Điều ác phải tránh là gì ? Có mấy thứ ?
Trong kinh "Lạy Cha", Chúa Giêsu đã dạy phải xin cho khỏi sa chước cám dỗ. Những cám dỗ có thể do ma quỷ, thế gian, xác thịt : có khi bởi một, có khi bởi cả ba một trật. Các chước cám dỗ có thể nghịch với các giới răn tự nhiên hay giới răn siêu nhiên. Chước cám dỗ có thể nhẹ hay nặng. Nặng có thể là tuyệt đối hay tương đối với người mắc đam mê hay nết xấu nào đó. Cơn cám dỗ có khi trầm trọng có khi bởi cường độ của nó có khi tại tính khí của người bị cám dỗ, có khi do tính cách lâu dài và phức tạp của chính sự cám dỗ.
Khi bị cám dỗ, con người có thể bị chiến bại , chiến thắng hay là cầm cự suông .
Sự chiến thắng có thể là giả hiệu : Ví dụ như không ưng thuận tội dâm đảng vì hà tiện ; kiêng khem các thức ăn thịnh soạn vì hư danh.
Chiến thắng vì sợ không dám làm phật ý Chúa, do lòng mến Chúa, đó là chiến thắng có công.
Chiến thắng vì sợ phải chịu hình phạt là chiến thắng độ trì (victoria salutaris).
Cũng có người chiến thắng không vì lý do siêu nhiên mà vì sự đoan trang tự nhiên.
Ta nên lưu ý có thể chiến thắng bề ngoài vì sợ luật hình, vì sợ ô danh, sợ nhiễm bệnh. Ví dụ không dám báo thù vì sợ luật pháp, nhưng lòng còn ấp ủ hận thù ; không giám hành lạc, nhưng lòng còn sôi sục thèm khát.
Muốn chiến thắng thật, phải là chiến thắng bên trong chiến thắng thực sự .
Luận đề II (XLVI). Không có sự trợ giúp của ân sủng, thì dù thiên thần hay phàm nhân, sống trong bất cứ bậc nào, cũng không thể lấy nguyên sức tự nhiên mà thắng bất cứ chước cám dỗ nào nghịch với bất cứ giới răn siêu nhiên nào.
Không có giới răn siêu nhiên hoàn toàn tiêu cực, bởi vì sự quên sót bỏ bê hành vi, xét như bỏ quên thì không thể là điều siêu nhiên. Các giới răn siêu nhiên thì hoặc là tích cực, hoặc là đặt cơ sở trên những điều tích cực.
Chứng minh.- Ta thắng chước cám dỗ nghịch với giới răn siêu nhiên bằng thực hiện một hành vi của nhân đức siêu nhiên mà chước cám dỗ chống phá.
Vậy không có sự trợ giúp của ân sủng thì không một thụ tạo nào có thể thực hiện một hành vi siêu nhiên.
Cho nên không có sự trợ giúp của ân sủng, thì dù thiên thần hay phàm nhân....
Hệ luận. 1. Để thắng những cám dỗ nghịch với giới răn siêu nhiên của đức ái, của các nhân đức luân lý phú bẩm, với ơn Chúa Thánh Thần, chẳng những phải có ơn hiện tại lại cần có ơn thường tại nữa
2. Nhưng để thắng những cơn cám dỗ nghịch với đức tin và đức cậy, ngoài ơn đức tin và đức cậy, chỉ cần ơn hiện tại.

Tiết III. Sự cần thiết của ân sủng
để người công chính làm lành lánh dữ
Đặt vấn đề : Ở đây hãy nói đến nghị lực của người đã được ơn thánh hóa, tức đã được công chính hóa. Vậy ơn thánh đã đủ cho người lành làm điều thiện và tránh điều ác chưa ? Hay còn cần ân sủng khác trợ giúp ?
1. Chủ thuyết Pélage trả lời, ơn thánh không ban sức mạnh để tránh tội, chỉ tha tội đã phạm. Nghị lực tránh tội và làm việc lành hoàn toàn do sự tự do ý chí.
2. Nhóm Á-Pélage thì cho rằng ơn thánh hóa ban nghị lực cho con người làm lành lánh dữ, ngoài ra không cần sự trợ giúp nào khác nữa.
3. Người Thệ phản cho rằng tội lỗi là điều không một ai, dẫu là người lành, có thể tránh ; điều duy nhất ơn thánh hóa có thể làm, là không quy trách tội lỗi cho chính nhân.
Các luận đề sau sẽ trình bày đạo lý của Giáo Hội liên quan đến sự cần thiết của ơn thường tại, ơn hiện tại, chung và riêng đối với bậc vẹn toàn, sa ngã, và bậc được sữa chữa.
Luận đề III (LII). Ơn hiện tại siêu nhiên thì tuyệt đối cần thiết để người lành, sống trong bất cứ bậc nào, có thể thực hiện bất cứ hành vi siêu nhiên nào, chẳng kỳ khó hay dễ, khiếm khuyết hay hoàn bị.
Ơn hiện tại siêu nhiên thánh Tôma gọi là sự trợ giúp của ân sủng (auxilium gratiae).
Sự trợ giúp hiện tại tổng quát nầy cần cho mọi bậc và mọi hành vi ; vì người công chính xét như đã được công chính hóa, có quyền đòi hỏi, vì mọi tài năng của con người vốn được Thiên Chúa phú bẩm những tập quán để hành động ; tuy nhiên còn cần sự huy động của Thiên Chúa. Ngoài ra còn có sự trợ giúp riêng (auxilium speciale) là thứ trợ giúp mà người công chính không có quyền đòi, nhưng là sự can thiệp của Thiên Chúa theo ý muốn của Người.
Chứng minh :
1. Thánh Kinh : Chúa Giêsu nói với các tông đồ (là người công chính) : "Không có Thầy, anh em chẳng làm được gì" (Ga 15,5). Thánh Phaolô cũng khẳng định một cách tổng quát "Chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người" (Phaolô 2,13).
2. Đạo lý của Giáo Hội. Trong mục lục về ân sủng (indiculum gratiae) có những lời sau đây : "... để khi các tín hữu làm việc lành nào thì Thiên Chúa đánh động tâm hồn họ bằng những soi dẫn của tình Cha, vì "phàm ai được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa"; để chúng ta cảm thấy có sự tự do ý chí, trong tất cả và trong mỗi một cử động của ý muốn nhân loại, ta không hoài nghi là sự trợ giúp của Thiên Chúa thì giá trị hơn. Thiên Chúa thực sự hoạt động trong tâm can và trong sự tự do ý chícủa con người, đến nỗi tư tưởng lành thánh, khuyên nhủ đạo đức và mọi xoay xở của ý chí ngay lành đều bởi Thiên Chúa ; vì điều gì lành chúng ta có thể làm cũng là do Người "Không có Người chúng ta chẳng làm gì được" (Ga 15,5). Vậy có bao giờ chúng ta không cần sự trợ giúp của Người không ? Bởi đó trong mọi hành vi, mọi nguyên nhân, mọi nghĩ tưởng, mọi cử động ta phải cầu xin Người như Đấng cứu trợ và bảo vệ. Chúng ta hãy nhìn nhận và tuyên xưng Thiên Chúa là tác giả của mọi ước muốn và mọi hành vi tốt lành, mọi khuynh hướng và mọi nhân đức, nhờ những thứ đó, ta hướng tới Thiên Chúa lúc đức tin mới chớm nở". Công đồng Orange II cũng nhấn mạnh đến những tư tưởng đó. Con người không làm điều lành nào mà không có Thiên Chúa.
4. Lẽ thần học. Không một tài năng nào, cũng không một tập quán nào, có thể trở thành hiện thể đệ nhị cấp (hành động) nếu không được huy động bởi biến căn đệ nhất, bất khả biến.
Vậy các nhân đức siêu nhiên hay phú bẩm cũng là những tập quán, khi hành động cũng cần được huy động bởi biến căn đệ nhất và tối cao trong phạm vi siêu nhiên, là Thiên Chúa. Thánh Tôma khẳng định : "Không bản tính thụ tạo nào dù chất thể hay thiêng liêng, dù hoàn bị đến đâu, có thể hành động nếu không được Thiên Chúa huy động trước".
Cho nên ơn hiện tại siêu nhiên thì tuyệt đối cần thiết...
Luận đề IV(LIV). Để người công chính có thể giữ mọi giới răn tự nhiên và siêu nhiên của Thiên Chúa suốt đời hay trong thời gian lâu dài và lướt thắng mọi chước cám dỗ nghịch với các giới răn ấy, cần phải có ơn hiện tại đặc biệt (gratia aetualis specialis) của Thiên Chúa .
1. Ở đây không tính thời gian theo toán học, mà thời gian có nghĩa tương đối. Nói suốt đời thì hiểu là đời sống trung bình của con người. Vì ngoài ra còn có những thời gian vắn vỏi hơn kém, nhưng cũng đủ để cần một trợ giúp riêng.
2. Sự trợ giúp riêng biệt này không ngầm hiểu đòi hỏi của con người dù là công chính, mà do lòng nhân hậu thương xót của Thiên Chúa ban cho.
Chứng minh.- 1. Thánh Kinh : Chúa Giêsu dạy phải canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ ; và xin "chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ" (Mt 3, 13). "Anh em hãy canh thức và cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối"(Mt 26,41). Thánh Phêrô cũng dạy các tín hữu "sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé" (1Pr 5,8). Thánh Phaolô cũng dạy điều đó một cách minh bạch (Ep 6,10-19 ; 1Cr 9.27).
2. Đạo lý của Giáo Hội : Công đồng Orange II đã ấn định là "nhờ ơn Thiên Chúa, chúng ta mới có thể dừng bước trước sai lầm và bất công. Phải luôn luôn xin Thiên Chúa ban ơn trợ giúp, để những người đã được tái sinh và đã được chữa lành có thể đạt tới mục đích tốt lành hoặc có thể kiên trì trong việc thiện". Công đồng Trid. ấn định : "Ai nói rằng người công chính, không cần ơn trợ giúp đặc biệt của Thiên Chúa vẫn có thể bền vững trong tình trạng công chính hóa, hoặc nói rằng dầu với ơn trợ giúp đặc biệt, người công chính cũng không thể bền vững trong tình trạng công chính hóa, thì bị vạ tuyệt thông."(D.S. 832/1572)
3. Lẽ thần học. Thánh Kinh và các CĐ nhấn mạnh đến sự cần thiết của sự cầu nguyện kiên trì, để tránh tội và khỏi sa chước cám dỗ.
Vậy mà chúng ta phải cầu xin những điều mà tự sức chúng ta không đạt được.
Cho nên việc cầu nguyện ngầm hiểu chỉ có Đấng chúng ta kêu cầu, tức Thiên Chúa mới có thể giúp chúng ta lướt thắng mọi chước cám dỗ và lánh mọi tội lỗi. Và Thiên Chúa thực hiện bằng sự trợ giúp riêng biệt, vì điều Chúa ban khi ta cầu xin là do lòng thương xót chứ không do đức công bình hoặc công nợ.
Hệ luận : 1. Giáo hội tin rằng Đức Trinh Nữ Maria đã được đặc ân miễn nhiễm suốt đời mọi tội nhẹ kịp suy và không kịp suy.
2. Nếu chỉ nói về những tội nhẹ đã kịp suy các nhà thần học nhất trí không thánh nhân nào được ơn miễn nhiễm suốt đời.
Tiết IV. Sự cần thiết của ân sủng
để bền chí trong điều thiện.
Sự bền chí có thể hiểu như là tập quán và như là hành vi. Là tập quán lại có thể hiểu là thành phần của đức can đảm : sự kiên định trong điều thiện, bất chấp những trở ngại, khó khăn do công việc lâu dài ; hoặc là một ý chí vững vàng trong điều thiện. Là hành vi, khi con người tiếp tục thực hiện cho đến cùng. Vậy người lành có thể bền chí trong điều thiện cho đến chết ?
Bền chí
Tập quán
Hành vi

Tạm thời




Đến cùng
Thụ động (chưa t.k.)
Vắn vỏi



Chủ động (tr.thành)
Lâu dài
2. Trong sự bền chí đến cùng không kỳ thụ động hay chủ động, yếu tố mô thể là chết trong ân sủng. Còn sự cộng tác lâu mau của người bền chí là yếu tố chất thể.
Lạc thuyết. Nhóm Á Pélage chủ trương rằng trong hiện tình của bản tính nhân loại, không cần sự trợ giúp riêng biệt của Thiên Chúa để bền chí đến cùng.
Andrés Vega chỉ công nhận sự cần thiết của ơn trợ giúp riêng biệt đối với sự bền chí chủ động và hằng ngày.
Những người thuộc nhóm Jansenius và Augustiniano dạy rằng, trong bậc vô tội không cần sự trợ giúp riêng biệt của Thiên Chúa để bền chí đến cùng.
Luận đề V (LX). Trong bậc được cứu chuộc, để bền chí trong ân sủng cho đến cùng, ấy là chết trong khi có ơn nghĩa cùng Thiên Chúa mọi người lành đều cần đến ân sủng rất đặc biệt.
(Nếu bàn về sự bền chí chủ động và hằng ngày thì đây là chân lý đức tin).
Chứng minh.- 1. Thánh Kinh "Người cao niên được đem đi như thế, kẻo sự gian tà biến đổi lòng họ, hoặc sự gian dối lừa đảo linh hồn họ"(Kn 4,11); "Bởi linh hồn họ đẹp lòng Chúa, nên Chúa sớm cất họ khỏi sự gian ác"(Kn 4,14).
Chúa Giêsu đã cảnh giác chúng ta nhiều lần, nhiều cách : "Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào" (Mt 25,23).
2. Đạo lý của Giáo Hội. - CĐ Orange II đã ấn đinh rằng : những người đã được tái sinh và được chữa lành phải luôn luôn xin ơn trợ giúp để đạt mục đích tốt lành và kiên trì làm việc thiện.
CĐC Trid. gọi sự bền chí đến cùng là hồng ân vĩ đại, chỉ một mình Thiên Chúa có thể ban. CĐ còn long trọng ấn định : "Nếu ai nói rằng không cần sự trợ giúp riêng biệt của Thiên Chúa, người được công chính hóa có thể bền đỗ trong sự công chính, hay với ơn trợ giúp ấy cũng không thể bền đỗ, thì mắc vạ tuyệt thông.
3. Lẽ thần học. Rất ít người đã sa ngã và chổi dậy biết tránh lánh mọi tội lỗi và lướt thắng mọi cám dỗ trong thời gian lâu dài. Như thế muốn được bền đỗ đến cùng, phải được ơn đặc biệt, vì người được công chính hóa đã có ơn thánh hóa là ơn thường tại cùng với các ơn Chúa Thánh Thần rồi.
Sự bền chí hiểu là tập quán hay hành vi thì cũng là hành động lệ thuộc ý muốn. Vậy một đàng không tập quán nào có thể làm cho sự tự do ý chíthành cố định trong điều thiện, đàng khác ý muốn là tài năng có thể tự ý sử dụng hay không những tập quán ấy.
Cho nên người công chính phải có ân sủng đặc biệt để được bền chí trong ơn nghĩa đến cùng.
Hệ luận I.- Trong bậc sa ngã người công chính thực sự cần ba loại trợ giúp siêu nhiên : - a. Trợ giúp siêu nhiên tổng quát, tự nó đủ để làm những việc siêu nhiên và đáng công dễ dàng ; - b. Trợ giúp siêu nhiên riêng biệt cần cho những việc gay go, để lướt thắng những chước cám dỗ trầm trọng, và để được bền đỗ lâu dài ; - c. Trợ giúp siêu nhiên đặc biệt, cần thiết để bền đỗ đến cùng.
II.- Ơn bền đỗ đến cùng khác với ơn được củng cố trong điều thiện (confirmatio in bono).
Ơn bền đỗ đến cùng là hồng ân chung được ban cho mọi người được tiền định ; ơn được củng cố trong điều thiện là ơn được ban cho một số người đắc sủng đặc biệt như ơn Chúa ban cho Đức Trinh Nữ Maria, có khi chỉ gìn giữ cho khỏi tội nặng như theo một số nhà thần học, ơn ban cho các tông đồ.
&&&&&&&&&&&&&&&&

Đoạn II
VỀ BẢN CHẤT CỦA ÂN SỦNG

Ở đây, bản tính của ơn thường tại và của ơn hiện tại sẽ được bàn một trật trong bốn chương sau.
Chương I : Ân sủng có đưa một thực tại thụ tạo nào vào linh hồn chăng ?
Chương II : Ân sủng có phải là một phẩm tính chăng ?\
Chương III : Ân sủng thực sự có khác với nhân đức chăng ?
Chương IV : Chủ thể riêng biệt và trực tiếp của ân sủng có phải là yếu tính của linh hồn chăng ?






Chương I

ÂN SỦNG CÓ ĐƯA MỘT THỰC TẠI
THỤ TẠO NÀO VÀO LINH HỒN CHĂNG ?

Đặt vấn đề. Nếu ân sủng có đưa một thực tại nào vào linh hồn, thì thực tại đó là điều thụ tạo hay tự hữu.
Để giải quyết vấn đề, cần xác định ý nghĩa của hạn từ ân sủng. Sách Giáo lý của Giáo Hội Công giáo định nghĩa : "ân sủng là một hồng ân, một trợ giúp nhưng-không Thiên Chúa ban cho ta, để hưởng ứng lời Người mời gọi trở nên con Thiên Chúa, nên nghĩa tử, nên những người thông phần vào bản tính Thiên Chúa và sự sống vĩnh cữu. (số 1996)
Nhưng theo ngôn ngữ thông thường, "ân sủng" có ba ý nghĩa :
1. Nghĩa chủ động : lòng yêu thương người nào. Ví dụ : viên sỹ quan đắc sủng với nhà vua, nhà vua thương yêu sỹ quan.
2. Nghĩa thụ động : hồng ân được ban nhưng không ; như khi nói : tôi cho anh ân huệ này.
3. Ý hiệu lực : lòng biết ơn, việc cảm tạ vì ân huệ đã được.
Hiểu theo nghĩa 2 và 3 , thì quả nhiên ân sủng có đưa một thực tại thụ tạo vào linh hồn, nhưng xét theo nghĩa một thì sao ?
Ý kiến : Những người Thệ phản cho rằng : một người có thể được ơn nghĩa với Thiên Chúa, nhưng không nhận được thực tại nào trong linh hồn : đây chỉ là đức công bình của Thiên Chúa được gán từ bên ngoài cho người ấy.
Phêrô Lombarđô nghĩ rằng người đắc sủng với Thiên Chúa nhận được nơi linh hồn một hồng ân siêu nhiên nhưng là hồng ân tự hữu, là chính Ngôi Chúa Thánh Thần.
Định đề : Ân sủng được hiểu như hành vi yêu thương hằng hữu của Thiên Chúa, thì không đưa vào linh hồn điều gì cả. Vì đối với loài người, lòng yêu thương của Thiên Chúa là một ân sủng, nhưng đó là hành vi của Thiên Chúa, đồng nhất với yếu tính của Thiên Chúa, là yếu tính của Thiên Chúa.
Luận đề VI (LXII). Ân sủng hiểu như ân huệ hay lòng nhân hậu của Thiên Chúa, thực sự đưa vào linh hồn người đắc sủng : A, thực tại siêu nhiên, nội tại; B, thụ tạo; C, thực sự khác với linh hồn và những tài năng của linh hồn.
Chứng minh.- 1. Thánh Kinh : "Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần trí mới vào lòng các ngươi.... Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thực hành" (Ez 36,26-27) "Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh của Đấng Tạo Hóa để được ơn thông hiểu" (Cl 3,10) "Vì thế, anh em..., phải đổi mới trong tâm trí anh em và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa, để thật sự sống công chính và thánh thiện" (Ep 4,..24). "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5)
Thực tại thụ tạo ban cho chúng ta được gọi là tinh thần nghĩa tử (Rm 8,15.16), là ấn tín của Thiên Chúa (2 Cr 1,22 ; Ep 1,13.14...), sự xức dầu (2 Cr 1,21), mầm sống của Thiên Chúa (1 Ga 3,9), hạt giống bất diệt (1 Phêrô 1,23), "Nước tôi cho... nước vọt lên đem lại sự sống đời đời" (Ga 4,14). Và như vậy chúng ta được thông phần bản tính của Thiên Chúa (2 Phêrô 1,4).
2. Đạo lí của Giáo Hội.- Công Đồng Vienne cho ý kiến sau đây là cái nhiên : trong bí tích Rửa tội, các nhân đức và các ân sủng, cũng như tập quán, được ban cho người lớn cũng như cho hài nhi.
CĐC Trident. sau khi liệt kê các căn nguyên của ân sủng, đã long trọng ấn định về nguyên nhân mô thể rằng : nguyên nhân mô thể duy nhất (của ân sủng) là sự công chính của Thiên Chúa... thứ công chính làm cho ta được thánh hóa, tức là nhờ Người thông ban mà chúng ta không những được kể như, mà còn được gọi là công chính mà kì thực là như thế ; nhưng chúng ta nhận vào mình theo mức độ Chúa Thánh Thần phân phát theo ý Người và tùy theo sự chuẩn bị và cộng tác của mỗi người. Ân sủng này "bám" vào linh hồn và có thể tăng triển.
Đức Piô V đã luận phi ý kiến của Bagiô cho rằng : sự công chính hóa được thể hiện do sự giữ trọn giới răn, chứ không do ơn thường tại được phú vào linh hồn.
3. Giáo thuyết của các Giáo Phụ.- Thánh Ignatio tử đạo dạy rằng : ân sủng thay đổi và cải biến chúng ta đến độ chúng ta trở thành người mang Chúa Kitô, mang Thiên Chúa (Christiferi, Deiferi). Thánh Gregorio Nysseno cho ân sủng là họa ảnh hay hình ảnh Thiên Chúa được in vào ta, cho nên là nội tại trong ta ; thánh Ephrem Syri nói : ân sủng in hình ảnh mới thay vì hình ảnh xấu xí của Ađam thứ nhất".
4. Lẽ thần học : phần A: Một thực tại siêu nhiên (chống với chủ trương của thệ phản).
Tình yêu hay lòng nhân hậu của Thiên Chúa , khác với mọi tình yêu của phàm nhân, không bị huy động hay kích thích bởi điều thiện nào của đối tượng, nhưng là căn nguyên phát sinh ra điều thiện ấy.
Sở dĩ ta yêu mến quý chuộng ai, vì ta khám phá ra một điểm nào đó làm cho ta có thiện cảm với người ấy. Chính điều khám phá đó làm phát sinh tình mến nơi ta. Còn tình yêu của Thiên Chúa, hiện hữu thuần túy, là nguyên nhân của mọi sự hoàn thiện nơi vật thụ tạo. Vì thế tình yêu Thiên Chúa hoàn toàn chủ độüng, chứ không bị kích thích bởi điều thiện thụ tạo.
Cho nên khi một tạo vật được Thiên Chúa hài lòng yêu thương, thì chính vì lòng nhân hậu của Thiên Chúa đã phú ban vào tạo vật ấy điều làm cho nó khả ái và đẹp lòng Người.
Nhưng đối với thụ tạo có lý trí, Thiên Chúa dành một tình yêu ưa ái (proedilectio), một tình yêu thiết thực và nội tại là được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa.
Mà sự thông dự sự sống của Thiên Chúa cách nội tại và siêu nhiên được gọi là ân sủng.
Cho nên ân sủng là thực tại siêu nhiên, nội tại Thiên Chúa đặt vào linh hồn.
Phần B. (Thực tại đó là ) thụ tạo : phi bác ý kiến của Phêrô Lombarđô.
1. Hồng ân Thiên Chúa chỉ có thể ở trong linh hồn theo ba cách : - Do ngôi hiệp, cách này không thể, vì chỉ có nơi Chúa Giêsu ; - do mô thể mô thể hóa, cách này cũng không thể vì Thiên Chúa là hữu thể thuần túy không bị đón nhận và không thể bị đón nhận (actus irreceptus et irreceptibilis) ; nên chỉ có theo cách cư ngụ (inhabitatio), như đối tượng được nhận biết và yêu mến. Và đây là cách Chúa Thánh Thần thực sự ngự trong linh hồn mọi kẻ lành.
Nhưng sự cư ngụ này chỉ thể hiện khi một thực tại thụ tạo siêu nhiên được thông ban cho kẻ lành ; thực tại đó chính là ân sủng.
Cho nên ân sủng là thực tại thụ tạo siêu nhiên.
2. Chính nhân (kẻ lành) phải hoạt động siêu nhiên, phải thực hiện những hành vi có công trạng để sống đời đời. Để được như thế, thì các tài năng, từ nội tại, phải được cất nhắc. Sự cất nhắc đó chỉ có thể thực hiện do sự thông ban những sức mạnh siêu nhiên thụ tạo.
Cho nên ân sủng là thực tại thụ tạo siêu nhiên.
Phần C. thực sự khác với linh hồn...(Phi bác ý kiến của Palmieri)
1. Theo thực thể và mô thể, ân sủng là điều siêu nhiên, thế nên vượt quá mọi tính tự nhiên với những nghị lực và yêu sách của bản tính ấy. Do đó ân sủng thì khác với...
2. Ân sủng có thể tăng giảm nơi một người lành, nhưng linh hồn và các tài năng của linh hồn thì không tăng...
3. Ân sủng có thể bị đánh mất vì tội trọng, nhưng ta không thể đánh mất linh hồn và các tài năng, cũng chẳng có thể lấy lại được. Cho nên ân sủng thực sự khác với linh hồn và những tài năng của linh hồn.

Chương II
ÂN SỦNG CÓ PHẢI LÀ MỘT PHẨM TÍNH KHÔNG

Chúng ta sẽ tìm hiểu ân sủng dưới hai phương diện : phương diện hữu thể thụ tạo và phương diện mô thể siêu nhiên.
Là hữu thể thụ tạo, ân sủng phải được xếp vào một phạm trù nào đó của hữu thể. Là mô thể siêu nhiên, thì tính siêu nhiên của ân sủng hệ tại điều gì.
Nhưng vì ân sủng có thể là ơn thường tại (habituallis) và ơn hiện tại (actualis). Vì thế sẽ có hai tiết bàn riêng về mỗi thứ ân sủng.
Tiết I. Bản tính của ơn thường tại.
Tiết II. Bản tính của ơn hiện tại.

Tiết I. Bản tính của ơn thường tại
Như đã nói, chúng ta sẽ thấy ân sủng được tìm hiểu dưới cả hai phương diện : chất thể như là hữu thể và mô thể như là siêu nhiên

§ 1. Yếu tính của ơn thường tại xét theo hữu thểí thụ tạo
Ân sủng là một hữu thể thụ tạo, nên phải là bản thể hay phụ thể (nghĩa là một trong 10 phạm trù).
Luận đề VII (LXIII). Ơn thường tại là một phụ thể, chứ không thể là bản thể.
Chứng minh.- 1. Theo CĐC Trident. Ân sủng là một thực tại "bám" vào con người. Mà thực tại bám vào một bản thể là phụ thể. Cho nên ơn thường tại là một phụ thể, chứ...
2. Cũng theo CĐC Trident, ân sủng có thể được tăng gia, cường tráng, phát triển.
3. Chính CĐC Trident cũng ấn định ân sủng là mô thể duy nhất làm cho chúng ta nên công chính hóa. Vậy mà ân sủng không thể là mô thể bản thể, và vì là siêu nhiên, nên không thể thuộc về bản thể con người. Cho nên...
4. Nếu ân sủng là bản thể thụ tạo siêu nhiên, thì bản thể cũng có những hoạt động bản nhiên (theo bản tính được dựng nên, như thị kiến và yêu mến thanh nhàn). Nhưng đó là những hoạt động riêng biệt (distinct) và chuyên biệt (special) của Thiên Chúa mà không thể là hoạt động bản nhiên của bất cứ thụ tạo nào.
Luận đề VIII (LXIV).- Ơn thường tại : A, không phải là một tương quan ; mà B, là một phẩm tính của linh hồn ; và C, là một tập quán (thói quen).
Có chín phạm trù phụ thể, vậy ơn thường tại thuộc phạm trù nào. Ân sủng là điều thiêng liêng, hiển nhiên không thể thuộc một phạm trù nào hàm súc chất thể hay trương độ như lượng, thời điểm (khi nào), vị trí (ở đâu), tư thế, trang phục. Ơn thường tại là điều bền vững, không phải là cái gì mau qua, nên cũng không thể là hành động hay thụ động. Vậy chỉ còn hoặc là tương quan hay phẩm tính.
Chứng minh.- A. Ơn thường tại không phải là một tương quan.
Theo triết học, tương quan hoặc lý định hay thực định (relation logique, relation réelle, luận lý hay thực tại) ; mà tương quan thực định thì hoặc là siêu việt hay phạm trù.
Vậy ơn thường tại không phải là thứ nào trong các tương quan ấy.
Cho nên ơn thường tại không phải là tương quan.
* Không phải là tương quan lý định (luận lý).
Ân sủng là một thực tại được thông ban cho ta, bám lấy linh hồn ta, có thể được tăng trưởng, đổi mới nội tâm chúng ta, làm cho chúng ta thông phần bản tính Thiên Chúa. Cho nên không phải là một tương quan lý định.
** Không phải là tương quan siêu việt.
Tương quan siêu việt, xét như hướng về một thực tại khác (như tác căn, cứu cánh, mẫu mã...) chính là thực tại tuyệt đối, nên được hàm chứa trong thực tại ấy và thực sự đồng nhất với nó. Thực tại tuyệt đối này không thể là một thực tại tự nhiên, vì Thiên Chúa xét như là tác giả của bậc siêu nhiên, thì không một vật tự nhiên nào có thể có tương quan siêu việt với Người. Nếu hiểu rằng có tương quan như thế tức là phủ nhận bậc siêu nhiên.
Thế nhưng, ơn thường tại (ân sủng) là một cái gì thuộc cấp bậc siêu nhiên (do Thiên Chúa thông ban), nên phải giả định là nó đồng nhất với một thực tại thuộc bậc siêu nhiên.
Như thế thì ơn thường tại không còn là tương quan đơn thuần nữa, mà là một mô thể siêu nhiên có tương quan siêu việt, như thấy nơi các tập quán siêu nhiên : tin, cậy, mến... Các tương quan siêu việt không tác thành một phạm trù riêng, có thể gặp thấy nơi mọi phạm trù, vì thế mà gọi là siêu việt.
*** Không phải là tương quan phạm trù.
a/ Ơn thường tại có thể được tăng gia. Nhưng tương quan không thể gia tăng.
b/ Ơn thường tại là điểm tới trực tiếp (terminus imme-diatus) của hoạt động Thiên Chúa. Nhưng tương quan không thể là điểm tới của hành vi nào hết.
c/ Tương quan không thể là nguyên lý của công việc, cũng không ban nghị lực để có thể hoạt động. Ân sủng là nguyên lý của hoạt động và ban cho ta nghị lực để hoạt động.
B. Mà là một phẩm tính của linh hồn.
Sau những giải trừ trên đây, chúng ta phải công nhận ơn thường tại thuộc phạm trù phẩm tính.
1. Phẩm tính là điều phẩm định một chủ thể và là nền tảng làm cho chủ thể ấy giống với chủ thể khác.
Vậy nhờ ân sủng, phàm nhân được phẩm định để đẹp lòng Thiên Chúa : nên công chính, bầu bạn, nghĩa tử và thừa kế của Người ; lại nhờ ân sủng mà phàm nhân có mô thể (formaliter similem) giống Thiên Chúa. Cho nên ơn thường tại là một phẩm tính.
2. Khi quan phòng cho các vật siêu nhiên, chẳng những Thiên Chúa hào hiệp và quảng đại không kém gì khi quan phòng cho các vật tự nhiên, trái lại phải tin là Người còn hào hiệp và quảng đại hơn, vì là sự quan phòng phát xuất từ tình thương yêu cao trọng hơn.
Cho nên trong sự quan phòng siêu nhiên, để các vật có lý trí có thể đạt tới cứu cánh siêu nhiên, tức là phúc trường sinh một cách thanh thản tự nhiên, hẳn Thiên Chúa đã thông ban những mô thức và những nhân đức siêu nhiên bền vững, là nhờ nguyên lý bản nhiên của các hoạt động siêu nhiên.
Mà những mô thức và những nhân đức siêu nhiên đó là những phẩm tính.
Cho nên ơn thường tại là một phẩm tính.
C. Và là một tập quán.
Phẩm tính gồm bốn cặp là : dự bị và tập quán (Disposition, habitude) ; khả kham và bất khả kham (capacité, incapacité) ; biến thái (métamorphose) và biến thể (Transubstantiation) ; vóc dáng (taille) và hình thù (forme).
Ơn thường tại không thể thuộc về vóc dáng và hình thù, vì chúng ngầm hiểu chất thể và trương độ. Cũng không thể là biến thái và biến thể, vì chúng chỉ phẩm định phần khả cảm thấp kém, không có nơi các thiên thần và ly hồn.
Cũng không thể là khả kham và bất khả kham, vì khả kham là điều gì tự nhiên, phát xuất một cách tự phát và bởi chính tính tự nhiên ; có thể được dùng để làm điều thiện hay là điều ác ; lại trực tiếp hướng về hoạt động. Mà không một điều nào trên đây phù hợp với ân sủng.
Sau hết không thể quan niệm ân sủng như một sự dự bị, vì CĐC Tridentino xác định sự dự bị ấy hệ tại sự gì, lại phân biệt minh mạch sự dự bị với ân sủng hay thánh sủng.
1. Thánh sủng là sự thông dự thể lý và mô thể (thực sự và chính thức) bản tính Thiên Chúa, sự thông dự ấy phải là một mô thể thể lý bền vững, tức là tập quán, chứ không phải là sự dự bị.
2. Thánh sủng thì thay thế bản tính siêu nhiên hay là một nguyên lý cơ bản của sự sống thần linh và siêu nhiên của linh hồn chúng ta. Mà bản tính theo định nghĩa thì bền vững, cố định.
3. Thánh sủng, cũng như đức ái - theo đặc tính riêng - khó biến dạng, vì theo tác căn cũng như theo mô thể riêng thì không thể mất ; tuy chủ thể có thể mất ân sủng, vì thông dự ân sủng một cách khiếm khuyết.
4. Hơn nữa, ân sủng cũng như đức ái, vì hàm súc sự gắn bó keo sơn với vật được yêu mến, với thị kiến thanh nhàn, nên không thể mất. Cho nên hàm súc sự kiên định, mà nó thông cho các nhân đức và những hành vi từ nó phát sinh.
5. Ân sủng nơi các trẻ nhỏ và nơi người trưởng thành thì như nhau. Nhưng nơi các trẻ nhỏ chưa biết dùng trí khôn, ân sủng mang tính chất của một mô thể vững bền.
Cho nên ơn thường tại là một tập quán.

II § YẾU TÍNH CỦA ƠN THƯỜNG TẠI
XÉT THEO MÔ THỂ SIÊU NHIÊN.
Đặt vấn đề.- Xét như phẩm tính siêu nhiên, ân sủng còn được nghiên cứu theo hai phương diện khác nhau : trong tương quan với tính tự nhiên mà nó trổi vượt ; trong tương quan với Thiên Chúa mà nó được thông dự. Tuy là hai phương diện của vấn đề nhưng hàm chứa lẫn nhau, vì mọi thứ trổi vượt và lướt thắng vật thụ tạo đều giả định sự tiến gần và tiếp cận với Thiên Chúa. Vì thế, điều khó hiểu ở đây chính là sự thông dự bản tính Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng siêu nhiên theo yếu tính, vô cùng trổi vượt trên mọi vật thụ tạo. Mọi vật thụ tạo siêu nhiên đều là siêu nhiên theo thông dự.
Vậy sự thông dự này là gì ? Và được thể hiện như thế nào ?
Xác định ý nghĩa.- 1. Mọi vật thụ tạo đều thông dự hữu thể của Thiên Chúa, là hữu thể do yếu tính (hay hữu thể tự lập hữu), nhưng không phải mọi vật thụ tạo là siêu nhiên. Cho nên ta thấy vật thụ tạo tự nhiên và siêu nhiên thông dự hữu thể do yếu tính cách khác nhau. Và sự khác nhau đó là gì ?
2. Các thụ tạo tự nhiên thông dự hữu thể theo yếu tính trong những hoàn thiện chung như hiện hữu, sinh sống, hiểu biết... còn các thụ tạo siêu nhiên thông dự những hoàn thiện riêng biệt của Thiên Chúa như nhìn thấy chính yếu tính của Thiên Chúa nhãn tiền, vui hưởng hạnh phúc của Thiên Chúa.
3. Các thứ thông dự riêng biệt - sự thông dự có thể là luân lý hay thể lý ; thể lý có thể là theo tiềm lực hay theo mô thể ; mô thể còn chia thành đơn nghĩa hay loại suy ; chủ vị và khách thể.
1o) Sự thông dự luân lý (participatio moralis) thể hiện theo lối bắt chước. Ví dụ khi ai bắt chước đức tin của Abraham thì được gọi là con cái của Abraham, còn ai bắt chước sự gian manh của ma quỷ thì gọi là con cái ma quỷ.
Sự thông dự thể lý (participatio physica), thể hiện bằng cách bắt chước Thiên Chúa trong sự đoan chính luân lý mà còn bằng cách nhận lĩnh một thực tại thể lý vào linh hồn, từ đó như từ căn nguyên thể lý phát xuất ra những thực tại thể lý khác nữa, như những nhân đức siêu nhiên phú bẩm (xem số 5 ở dưới).
2o) Thông dự thể lý theo tiềm lực (participatio physica virtualis), là khi điều hoàn thiện của vật được thông dự chỉ thấy một cách trách tuyệt nơi chủ thể thông ban, như mầm sống có một cách trác tuyệt nơi cây cối.
Còn thông dự thể lý theo mô thể (participatio physica formalis), là khi điều hoàn thiện có một cách thể lý và nội tại nơi vật được thông dự lẫn nơi chủ thể thông ban, như sức nóng hơi nước và nơi nhiên liệu.
3o) Thông dự thể lý theo mô thể đơn nghĩa lực (parti-cipatio physica formalis univoca), khi điều hoàn thiện thông ban có nơi vật thông dự và chủ thể thông ban theo cũng một lý tính.
Còn nếu điều thiện được thông ban, theo lý tính đơn thuần thì khác nhau, nhưng giống nhau theo khía cạnh hay tỷ lệ nào đó thì gọi là thông phần thể lý theo mô thể và loại suy (participatio physica formalis analoga).
Khi nói ân sủng là sự thông dự bản tính Thiên Chúa thì phải hiểu là thông dự thể lý theo mô thể và loại suy mà thôi, vì không thể gán hữu thể theo đơn nghĩa cho Thiên Chúa và cho các vật thụ tạo được.
4. Thông dự chủ vị và khách thể (participatio Subjectiva et objectiva). Sau hết nên lưu ý rằng chúng ta có thông dự bản tính Thiên Chúa hoặc cách chủ vị, qua một mô thể nội tại và bám vào chủ thể ; hoặc khách thể, như đối tượng của các nhân đức và của những hành vi siêu nhiên. Hiển nhiên ở đây chúng tôi chỉ bàn về sự thông dự chủ vị qua một mô thể nội tại liên kết với linh hồn.
5. Không thể quan niệm ơn thường tại (gratia habitualis) như một thực tại trơ trụi, mà phải hiểu như một bản tính siêu nhiên, từ đó phát sinh ra những đặc trưng và những nhân đức siêu nhiên, phú bẩm, là những tài năng trực tiếp hoạt động (potentiae proximae operativae) ; rồi từ các nhân đức hay tài năng này phát xuất ra những hành vi hay những hoạt động siêu nhiên. Thành thử các nhân đức siêu nhiên là điều thuộc về ơn thường tại, phát xuất từ ơn thường tại và hướng về ơn thường tại như là một sự bổ sung ; còn các hành vi cũng phát xuất từ ơn thường tại như từ cội nguồn hoặc từ căn đế xa. Do đó ta có thể so sánh ân sủng, các nhân đức và những hành vi với linh hồn, tài năng và hành động.
Những khía cạnh (phương diện) cần phân biệt nơi Thiên Chúa. 1. Bản tính của Thiên Chúa : Hữu thể lập hữu hay hữu thể theo yếu tính. Là căn nguyên đệ nhất của tất cả những thực tại nơi Thiên Chúa. Là nguồn gốc của mọi hoạt động và mọi phát xuất.
2. Nguyên khởi gần của một hoạt động và mọi sự phát xuất : là những tài năng gần hoạt động : trí tuệ và ý muốn.
3. Hành vi nội tại hay sự sống đệ nhị cấp của Thiên Chúa : sự thông biết và sự ưa thích của Thiên Chúa.
4. Hạnh phúc của Thiên Chúa : Thiên Chúa nhận biết yếu tính của mình và thưởng thức sự tốt lành vô cùng của mình.
5. Nhiệm xuất hay sự phong nhiêu của Thiên Chúa : Chúa Cha nhiệm sinh Ngôi Lời theo lối hiểu biết : Ngôi Cha và Ngôi Lời nhiệm xuất Chúa Thánh linh theo lối tình yêu.
Lạc thuyết. Xét theo tương quan với tính tự nhiên, Luther đồng hóa ân sủng với tính tự nhiên. Những người Duy lý hay Bán Duy lý, những người theo thuyết Pélage hay Bán Pégale chủ trương rằng ân sủng không vượt quá sức của con người, chẳng kỳ là sức ý thức hay yêu mến hoặc cả hai. Sau hết Baius, Jansenius, Quesnell và những người theo thuyết Duy tân (Modernisme) thì cho con người có quyền yêu sách, đòi hỏi cho được ân sủng.
Luận đề IX (LXV) Ân sủng xét theo cốt tính như siêu nhiên thì trổi vượt trên : A. mọi bản tính đã được tạo thành ; B. mọi nghị lực chủ động của bản tính tự nhiên ; C. mọi sức nhận biết và yêu mến của tính tự nhiên đã được tạo thành ; Đ. mọi công trạng và mọi yêu sách của bản tính tự nhiên, dù là bản tính còn ở trong bậc vẹn toàn.
Chứng minh.- A. (...vượt trổi mọi bản tính đưọc tạo thành hay có thể được tạo thành). Xét theo cốt tính siêu nhiên thì ân sủng thuộc cấp bậc siêu nhiên ; mà mọi vật được tạo thành hay có thể được tạo thành thì bản tính của chúng thuộc cấp bậc tự nhiên. Cho nên ân sủng phải là trổi vượt trên mọi bản tính được tạo thành hay có thể được tạo thành. Tuy nhiên vấn đề sẽ được bàn rộng thêm.
B. (mọi sức chủ động của bản tính tự nhiên). Điều này sẽ được bàn đến trong đoạn IV về tác căn của ân sủng.
C. (Mọi sức nhận biết và yêu mến..) 1. Thánh kinh.- Tân ước : "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không Chúa cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. (Mt. 11, 25 -26) ; "chẳng ai đến được với tôi, nếu Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy" (Ga. 6, 44)
2. Lẽ thần học.- Chỉ có thiên thần và con người có tài năng để hiểu biết và yêu mến. Đối với con người để vươn tới những chân lý siêu nhiên, cần phải có sức mạnh siêu nhiên đến trợ giúp tức là ân sủng. Như vậy, ân sủng phải vượt trên hai tài năng nhận biết và yêu mến của linh hồn, mà linh hồn là một thụ tạo được tạo thành.
D.(Trỗi vượt trên mọi yêu sách của bản tính tự nhiên.)
1. Thánh kinh.- Thánh kinh nhắc đi nhắc lại cho chúng ta biết, nhờ ân sủng, chúng ta trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, hoặc nhận được tinh thần nghĩa tử. (Rm. 8, 14-17 ; Ep 1,5 ; 3,1).
Vậy việc nhận nghĩa tử - theo luật lệ của mọi dân tộc và mọi thời đại, cũng như theo Thánh Kinh,- là hành vi tự do và nhưng không của người nhận.
Cho nên Thiên Chúa cũng nhận những thụ tạo có lý trí làm con mình cách nhưng không, hoặc thông ban ân sủng cho họ cách nhưng không, để họ trở thành những con thừa nhận, những nghĩa tử.
2. Đạo lý Giáo hội. - Giáo hội đã luận phi nhiều mệnh đề của M.Baius Quesnell, của CĐ Pistoie (Phái Jansemisme (Toscan) họp công đồng dưới sự chủ tọa của Gm. Scipion Ricci, đề nghị một số cải cách) và của những nhà Duy Tân chủ trương rằng ân sủng là điều con người có quyền đòi hỏi hay yêu sách.
3. Lẽ Thần học : -1o) Nhận con nuôi, tức là thu nhận một ngoại nhân làm thành viên trong một gia đình, ban cho người ấy quyền hưởng phần gia tài, được phân chia vào một ngày nào đó - là hành vi tự do và nhưng không.
Vậy nhờ ân sủng, phàm nhân được trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa.
Cho nên ân sủng thiết lập nghĩa tử, thu nhận chúng ta làm thành viên trong gia đình của Thiên Chúa, là công hiệu của hành vi tự do và nhưng không của Thiên Chúa, vượt trổi trên mọi yêu sách của bản tính tự nhiên của vật thụ tạo.
2o) Không ai có quyền sở hữu trên những của cải thuộc sở hữu của người khác, cũng không có thể yêu sách cho được những của vượt trổi trên bản tính của mình.
Mà thông phần bản tính Thiên Chúa, thị kiến thanh nhàn, vui hưởng chính hạnh phúc của Người, là những điều thiện sở hữu riêng biệt của Thiên Chúa và siêu nhiên, vượt trổi trên những quyền lợi và yêu sách của phàm nhân.
Cho nên ân sủng giúp phàm nhân được thông phần bản tính Thiên Chúa, được thị kiến thanh nhàn... thì siêu nhiên, vượt trổi trên mọi công trạng và mọi yêu sách của bản tính tự nhiên.
Luận đề X (LXVI) : Ơn thường tại - theo yếu tính - là sự thông dự vào bản tính Thiên Chúa ; là sự thông dự thể lý, đích thực, nhưng loại suy.
Chứng minh : là sự thông dự vào bản tính Thiên Chúa.
1. Thánh Kinh : "Chính Thánh Linh chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa"(Rm 8,16) ; "Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào : người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa ; mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa" (1 Ga 3,1).
Mà con cái là những người nhờ sinh thành mà nhận được bản tính của thân phụ.
Việc làm con này không do sự cư ngụ của Chúa Thánh Thần, Đấng chỉ chứng thực và bảo đảm việc làm của chúng ta. Những kiểu nói : "Chính Chúa Thánh Linh cùng với thần trí chứng thực rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa" (Rm 8,16). "Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã cử Thần linh của Con Mình đến ngự trong lòng anh em và kêu lên : Abba, Cha ơi" (Gl 4,6). Thánh Phaolô gọi thực tại này là tinh thần nghĩa tử, như tương phản với tinh thần nô lệ (Rm 8,15), và thánh Gioan gọi là ‘mầm sống của Thiên Chúa’ (1Ga 3,9) - là những kiểu nói không thể áp dụng vào Chúa Thánh Linh, vì nhắc đến một thực tại (mô thể) thụ tạo siêu nhiên làm cho chúng ta thành con cái Thiên Chúa.
Vì thế, nếu quả người công giáo chính là con cái Thiên Chúa thì hẳn là nhờ sự sinh thành thiêng liêng mà họ nhận được bản tính Thiên Chúa. Thành thử chỉ là thông dự bản tính ấy thôi.
Cho nên ơn thường tại là sự thông dự bản tính Thiên Chúa.
2. Đạo lý Giáo Hội.- 1o) CĐC Trentô dạy rằng nhờ sự công chính hóa, tội nhân trở thành con cái yêu dấu của Thiên Chúa ; được chuyển sang tình trạng ân sủng và nghĩa tử.
2o) Thánh Pio V Giáo Hoàng, khi luận phi chủ trương của Baiô, đã dạy rằng, sự công chính hóa hệ tại thường sủng được phú vào linh hồn, nhờ đó phàm nhân trở thành dưỡng tử của Thiên Chúa, được tái sinh bên trong và thông phần bản tính Thiên Chúa, chứ không hệ tại giữ trọn giới răn mà thôi. Trong thông điệp Divinum illud, Đức Leo XIII đã nói rằng : "Những người công chính được Thánh kinh và các Giáo phụ gọi cách chính xác là được tái sinh, thụ tạo mới, thông dự bản tính Thiên Chúa, con cái Thiên Chúa và được thần hóa" (ASS 1896,97, p. 651-652).
Trong thông điệp Mystici Corporis, Đức Piô XII dạy rằng : Ngôi Lời đã tự hạ, mặc lấy hình nô lệ làm cho anh em của Người về xác thịt được thông phần bản tính Thiên Chúa bằng thánh sủng ở đời này và bằng phúc thanh nhàn ở đời sau" (ASS 1943, p. 214).
3. Các thánh Giáo phụ.- Thánh Lêo Cả đã khích lệ các kitô hữu : "Giờ đây bạn đã được thông phần bản tính Thiên Chúa, đừng để mình bị thoái hóa qua việc trở lại và lối sống bất xứng dĩ vãng" ; theo thánh Cyrillo thành Jésusalem : người nhờ thánh sủng thông dự Thiên Chúa, như thanh sắt nung thông phần lửa hồng. Thánh Athanasiô nói : "Sở dĩ Con Thiên Chúa trở thành con phàm nhân, là để những con phàm nhân, nghĩa là con của Ađam trở thành những con Thiên Chúa". Thánh Augustin viết : "Thiên Chúa đã hứa cho phàm nhân được Thiên Chúa tính, cho kẻ phải chết được ơn bất tử, cho tội nhân được công chính hóa, cho kẻ hèn mọn được vinh quang" (In Ps,. 109, 1-3 ; CCL 40, 1601-1603) ; theo thánh Gioan Kim Khẩu, Con và Con thật Thiên Chúa đã khứng nghe (người ta gọi) là con vua Đavit, để làm cho bạn trở nên Con Thiên Chúa.
4. Lẽ thần học.- 1o) Theo đạo lý được Thánh kinh và các Giáo phụ nhắc đi nhắc lại cho chúng ta, nhờ ân sủng con người được tái sinh thiêng liêng trong đời sống thần linh, được làm nghĩa tử của Thiên Chúa và được chung hưởng vinh quang với Người.
Nhưng không ai có thể được Thiên Chúa cho tái sinh và làm nghĩa tử đích thực của Người, cùng chung hưởng vinh quang với Người, nếu không có bản tính Thiên Chúa.
Được sinh ra, được làm con, được thừa kế ngầm hiểu là có cũng một bản tính như vị sinh thành, là thân phụ, là sở hữu chủ gia tài.
Cho nên nhờ ân sủng, con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.
2o) Các nhân đức siêu nhiên và phú bẩm, vì lẽ là những nhân đức siêu nhiên, phải giả định là một bản tính cao trọng tương ứng với các nhân đức ấy và với cứu cánh siêu nhiên.
Nhân đức là phẩm tính luôn luôn ngầm hiểu một bản tính mà nó phẩm định. Các nhân đức tự nhiên hay tập luyện giả định bản tính của con người có lý trí, mà chúng kiện toàn trong lãnh vực mục đích tự nhiên, phù hợp với bản tính ấy. Vậy các nhân đức siêu nhiên, kiện toàn con người cách cao cả và trong lãnh vực mục đích siêu việt. Nên phải giả định một bản tính siêu nhiên.
Mà bản tính siêu nhiên đây chính là bản tính Thiên Chúa được người công chính thông dự (chứ không phải là cái gì khác).
Cho nên nhờ ân sủng con người được thông dự bản tính Thiên Chúa.
3o) Các nhân đức thần hướng khuynh hướng con người về cứu cánh siêu nhiên ; các nhân đức luân lý huy động con người hoạt động vì cứu cánh ấy.
Khuynh hướng cũng như hoạt động chiều về một đối tượng tương ứng. Cho nên để có thể nói tới cứu cánh siêu nhiên, các nhân đức cũng phải siêu nhiên.
Nhưng mọi khuynh hướng đều phát xuất từ một bản tính ; thành thử khuynh hướng siêu nhiên ngầm hiểu một bản tính siêu nhiên.
Cho nên để với tới cứu cánh siêu nhiên, bản tính con người phải được cất nhắc lên ngang tầm cứu cánh ấy.
Sự cất nhắc này thể hiện bằng ân sủng, làm ta thông dự bản tính Thiên Chúa.
Cho nên nhờ ơn thường tại con người được thông dự bản tính Thiên Chúa.
B. Thông dự thể lý, đích thị, nhưng loại suy.
Bản tính Thiên Chúa là một thực tại thể lý, vậy khi ân sủng làm cho phàm nhân được thông dự vào bản tính Thiên Chúa thì sự thông dự ấy là thông dự thể lý. Cũng là một sự thông dự đích thị hay là thông dự mô thể, vì ân sủng chính là nguyên nhân của các hành vi siêu nhiên là hành vi theo mô thể, cho nên sự thông dự các bản tính Thiên Chúa là một sự thông dự theo mô thể.
Nhưng chỉ là thứ thông dự loại suy, vì giữa Thiên Chúa và tạo vật chỉ có thể có phù hợp tương tự, loại suy chứ không thể có sự tương hợp nào khác.
Ýï niệm nhất quán về ơn thánh hóa. - Để có một cái nhìn tổng hợp chúng ta hay so sánh :


A. Hữu thể siêu nhiên theo yếu tính
1. Bản tính Thiên Chúa : Hữu thể lập hữu hay do yếu tính - là căn nguyên thứ nhất và cội rễ của mọi sự có nơi Thiên Chúa - là căn nguyên xa của mọi hoạt động và của mọi phát xuất nơi Thiên Chúa.

B. Hữu thể siêu nhiên do thông dự
1. Thánh sủng : là căn nguyên đệ nhất và cội rễ của các nhân đức tự nhiên phú bẩm, và căn nguyên xa (principium quo radicale) - của mọi sinh hoạt siêu nhiên nơi chính nhân.
2. Căn nguyên gần của mọi sinh hoạt và phát xuất : tài năng trực tiếp hoạt động : trí tuệ và ý muốn.

2. Các nhân đức phú bẩm : nhân đức thần hướng, ánh vinh quang, đức tin, đức ái, các nhân đức luân lý, khôn ngoan, công bình.
3. Hoạt động nội cố của Thiên Chúa hay sự sống của Thiên Chúa trong hiện thể đệ nhị : sự hiểu biết và ưa thích của Thiên Chúa.

3. Hành vi siêu nhiên của các nhân đức phú bẩm, thứ nhất là các nhân đức thần hướng, và thứ đến là các nhân đức luân lý.
4. Hạnh phúc của Thiên Chúa : Thiên Chúa quán triệt yếu tính của mình và vui thỏa sự tốt lành vô cùng của mình.

4. Hạnh phúc của Thiên Chúa mà chính nhân thông dự hệ tại nhận biết và yêu mến Thiên Chúa cách siêu nhiên. Thông dự cách vị toàn ở trần gian, và hoàn bị bằng thị kiến thanh nhàn trên nơi vĩnh hằng.
5. Nhiệm xuất và sự phong nhiêu của Thiên Chúa : Chúa Cha nhiệm sinh Ngôi Lời qua sự hiểu biết ; Chúa Cha và (Chúa Con) Ngôi Lời nhiệm xuy Chúa Thánh Thần qua tình yêu.

5. Thông dự theo mô thể những nhiệm xuất của Thiên Chúa : con người được thần hóa bởi ân sủng, nhận biết Thiên Chúa cách siêu nhiên và phát sinh ra tâm từ siêu nhiên, là hình ảnh Thiên Chúa. Do người được thần hóa và do tâm từ phát xuất ra tình yêu thần linh, có chung hạn nội cố trong ý muốn.
Hệ luận.- Những công hiệu của thánh sủng.
1.- Công hiệu thứ nhất và căn bản làm cho phàm nhân thông dự bản tính Thiên Chúa. (2Pr. 1, 4)
2.- Làm cho phàm nhân thành nghĩa tử của Thiên Chúa, với quyền thừa hưởng gia nghiệp của Người. Nghĩa tử trong lãnh vực siêu nhiên nầy mang một ý nghĩa thực tiễn hơn lĩnh vực nhân loại rất nhiều.
3.- Cung cấp cho chính nhân đời sống siêu nhiên hoàn bị, vì ân sủng là căn nguyên và cội rễ của các nhân đức phú bẩm,,, cho nên cùng với ân sủng, chính nhân được Thiên Chúa phú cho mọi nhân đức siêu nhiên là những nguyên nhân trực tiếp hoạt động. Tội nhân có đức tin và đức cậy "vô hồn" (fides et spes informes), chỉ có một chút sự sống Thiên Chúa. Nhưng thánh sủng, mầm sống của mọi nhân đức, làm cho chúng ta thông dự hoàn bị sự sống của Thiên Chúa.
4,- Làm cho người đã lĩnh nhận ơn nghĩa đắc sủng với Thiên Chúa và đáng hưởng sự sống vĩnh cửu. (Rm. 8,17).
5.- Làm cho phàm nhân thành bạn hữu của Thiên Chúa. Căn bản của tình bạn là đức ái. Nhưng tình bằng hữu vẫn luôn luôn xây dựng trên sự chung đụng của cải, và tình bằng hữu siêu nhiên của phàm nhân với Thiên Chúa hệ tại thông dự bản tính Thiên Chúa. Như thế ân sủng, theo thực chất, thiết lập nền tảng của tình bằng hữu siêu nhiên.
6.- Thánh sủng là căn nguyên, cội rễ vì sao Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trong linh hồn ta như trong đền thờ của Người (Ga. 14, 23), vì là cội rễ phát các nhân đức. Thực vậy, Chúa Ba Ngôi ngự trong linh hồn ta như đối tượng được ta nhận biết và yêu mến, như thế là qua trung gian của các nhân đức ; đàng khác ân sủng không phải là căn nguyên trực tiếp hoạt động, mà hoạt động qua các nhân đức...
7.- Ân sủng làm cho linh hồn được mỹ miều, kiều diễm, siêu nhiên, rạng ngời ánh sáng.
8.- Ân sủng xóa bỏ tội lỗi, vì công chính hóa và làm cho phàm nhân đắc sủng với Thiên Chúa. Nhưng phàm nhân không thể đắc sủng với Thiên Chúa, nếu không sạch mọi tội lỗi.

Tiết II : Bản tính của ơn hiện tại
Như khi bàn về ơn thường tại, chúng ta có thể xét về ơn hiện tại theo hai phương diện : hữu thể thụ tạo và mô thể siêu nhiên.
§ I. Yếu tính của ơn hiện tại xét theo
hữu thể thụ tạo.
Ý kiến.- Có nhiều ý kiến liên can đến vấn đề này : Thuyết Jansenio, P. Quesnel đồng hóa ơn hiện tại với chính hoạt động hay ý muốn của Thiên Chúa. Thuyết này đã bị Giáo Hội luận phi (D.S. 1360 - 1361 / 1240 - 2411).
Molina đồng hóa ơn hiện tại với hành vi chưa kịp suy của trí khôn và ý muốn. Các đồ đệ của thánh Thomas cho rằng ơn hiện tại là điều thụ tạo nào đó, khác với tác động tạo thành của Thiên Chúa, và được tiếp nhận vào những tài năng trực tiếp hoạt động tiếp nhận làm thành căn nguyên của những hành vi sống động của con người, kể cả hành vi chưa kịp suy, là một sự khởi động. Vì thế, có trước hoạt động của con người và thực sự khác với hoạt động ấy.
Vậy ơn hiện tại là gì ? Phải chăng là sự khởi động nào đó của linh hồn ?
Hai cách hiểu sự khởi động nào đó của linh hồn (Motus quidam animae) :
1. Sự khởi động có lúc được hiểu là một hành vi khiếm khuyết, vị toàn ; có lúc ám chỉ một hành vi hoàn bị như là hành vi sống động của con người : cảm giác, hiểu biết, yêu mến.
Những nhà thần học theo thuyết Molina hiểu theo nghĩa thứ hai. Những đồ đệ của thánh Toma lại hiểu theo nghĩa thứ nhất : một sự khởi động của linh hồn nhận được (motus receptus), chứ không như một sự tự khởi động hay khởi động trực giác (motus elicitus).
2. Để hiểu điều trên đây chúng ta nên lưu ý : cũìng một chuyển động thì vừa là hành vi của biến căn (actus motoris), vừa là hành vi của vật khả biến (actus mobilis) ; bởi vì cũng một thực tại của chuyển động mà một phía là biến căn chủ động thực hiện huy động, một phía là vật khả biến hoàn toàn bị động đón nhận sự chuyển động do biến căn thông cho, chứ vật khả biến không thể tự khởi động được.
3. Cũng thế, Thiên Chúa thực hiện khởi động linh hồn (ta gọi đó là ơn hiện tại) và linh hồn có được hành động là nhờ chính sự khởi động ấy của Thiên Chúa, linh hồn chỉ là khả năng thụ động đón nhận ơn hiện tại.
4. Theo thánh Tomas, sở dĩ ơn hiện tại không tự thể (per se) và trực tiếp thuộc về một phạm trù nào, vì là một chuyển động, là hữu thể vị toàn, đang hình thành theo lối khuynh hướng, chứ không phải là hữu thể hoàn chỉnh.
Ơn hiện tại hiểu là chủ động (activa) xét như là điều phát xuất từ Thiên Chúa thông cho vật thụ tạo ; và hiểu là thụ động (passiva) xét như là điều mà vật thụ tạo lĩnh nhận từ Thiên Chúa.
Luận đề XI : Ơn hiện tại : A. Tự thể, trực tiếp, và sát nghĩa không phải là một phẩm tính ; B. nhưng có thể qui kết vào một phẩm tính ; C. đúng ra là một sự khởi động thông ban cho linh hồn
(Luận đề trình bày ý kiến của Thánh Toma).
Hiển nhiên ơn hiện tại là một hữu thể thuộc phạm trù phụ thể, nhưng là phụ thể nào ?
Đó là điều cần được giải đáp.
Chứng minh.- A. Ơn hiện tại, tự thể, trực tiếp không phải là phẩm tính sát nghĩa.
Nếu quả là một phẩm tính thì ơn hiện tại có thể là hoàn bị, thường tại và khả kham.
Nhưng những phẩm tính ấy ngầm hiểu là một hữu thể hoàn chỉnh, hay ít ra là bền vững.
Mà ơn hiện tại lại là thực tại lâm thời, uyển chuyển theo yếu tính : là một trợ lực, một sự khởi động.
Cho nên ơn hiện tại tự nó không thể là một phẩm tính sát nghĩa.
B. Nhưng được qui vào một phẩm tính.
1. Dù ơn hiện tại không phải là một phẩm tính, nhưng phát sinh những công hiệu riêng mang thể thức thuộc phạm trù phẩm tính, vì ở đâu thiếu tập quán siêu nhiên, thì ơn hiện tại cung cấp cho các tài năng nhờ những nghị lực thuộc lãnh vực thần linh và siêu nhiên, để thực hiện những hành vi thực thụ là siêu nhiên. Lúc đó, ơn hiện tại được gọi là ơn cất nhắc. Cho nên ơn hiện tại được qui kết vào một phẩm tính.
2. Những thực tại bất toàn được thẩm định theo mục tiêu (terminus) mà chúng hướng tới, vì thế mục tiêu của những thực tại ấy thuộc phạm trù nào thì chúng cũng được qui kết vào phạm trù ấy. Mà ơn hiện tại thì hướng tới ơn thường tại, như chỗ hoàn chỉnh tự nhiên, nên có thể qui kết vào phạm trù của ơn thường tại, tức là phẩm tính.
C. Đúng ra ơn hiện tại là một khởi động được thông ban cho linh hồn.
1. Những hành vi sinh động chưa kịp suy của trí khôn và ý muốn mà Molina cho là ơn hiện tại - là những hành vi siêu nhiên thực sự. Những hành vi ấy phải là phát xuất từ tài năng của linh hồn như căn nguyên. Nhưng những tài năng của linh hồn nhiều khi thiếu tập quán siêu nhiên - không thể là căn nguyên trực tiếp của những hành vi ấy. Trong trường hợp này, phải công nhận là, tài năng của linh hồn phải nhận được ơn hiện tại cất nhắc trước, để đủ nghị lực khả dĩ phát sinh những hành vi siêu nhiên thực sự.
2. Không có bản tính nào - vật thể hay thiêng liêng - dù hoàn thiện đến đâu, có thể bước sang hành động, nếu không được Thiên Chúa khởi động trước. Như thế sự khởi động của Thiên Chúa rất cần thiết để vật thụ tạo có thể bước sang hành động, hay để áp dụng tài năng vào hành động.
Cho nên ơn hiện tại là một thực tại siêu nhiên lâm thời, được trực tiếp nhận vào những tài năng của linh hồn nhiều khi để cất nhắc và tăng cường chúng, nhưng luôn luôn để áp dụng chúng vào hành động.

§ I. Về yếu tính của ơn hiện tại
xét theo mô thể thiêng liêng
Đặt vấn đề.- Khi bàn chung về ân sủng, thánh Toma đã cho là "điều siêu nhiên trong con người phát xuất từ Thiên Chúa". Khi đề cập đến ơn hiện tại, thánh Toma gọi là "sự trợ giúp nhưng không của Thiên Chúa" hay là "thành quả của ý muốn nhưng không của Thiên Chúa" hoặc là "chính công hiệu nhưng không nơi con người". Tiếng nhưng không của Thiên Chúa dẫn chúng ta tìm hiểu tính cách siêu nhiên của ơn hiện tại.
Luận đề XII (LXX).- Ơn hiện tại là thực tại siêu nhiên theo thực chất và mô thể.
Chứng minh.- 1. Đạo lý của Giáo hội. Giáo hội đã dạy rằng, ơn hiện tại là tiềm năng thông dự (participatio vir-tualis) bản tính của Thiên Chúa, vì có mục đích chuẩn bị chúng ta lĩnh nhận ơn thánh hóa ; bảo tồn và tăng thêm ân sủng đã lĩnh nhận. Như thế ơn hiện tại là mầm mống sẽ trổ sinh ơn thường tại : vì là sự khởi động, là sự hình thành của một thực tại hiện thể hay là hiện thực của ơn thường tại. Mà ơn thường tại là phẩm tính siêu nhiên, như đã chứng minh trên đây. Cho nên ...
2. Lẽ thần học . 1o) Ơn hiện tại trực tiếp hướng về việc phát sinh những hành vi siêu nhiên theo mô thể. Mà căn nguyên không thể kém hơn công hiệu. Cho nên ơn hiện tại là một thực tại siêu nhiên theo mô thể (=siêu nhiên thực sự).
2o) Ơn hiện tại khác với ơn thường tại như hành vi với tập quán. Mà ơn hiện tại làm cho ta thông dự thiết thực vào nghị lực thần linh.
Thông dự cách nội tại (ad intra) nghị lực thần linh để hiểu biết, yêu mến, khi hiện sủng là ơn cất nhắc sức hiểu biết và yêu mến. Thông dự cách ngoại tại (ad extra) nghị lực thần linh hay là toàn năng, vì áp dụng tài năng đã được cất nhắc vào công việc.
Nhưng thông dự thần linh như thế là thông dự thực tại siêu nhiên theo yếu tính. Và thông dự như thế là thông dự cách thiết thực theo mô thể.
Cho nên ơn hiện tại là thực tại siêu nhiên theo mô thể.
Hệ luận.- 1. Nhờ ơn hiện tại, ta thông dự nghị lực thần linh cách lâm thời, do đó những nghị lực của chúng ta được thuần hóa cách khiếm khuyết, hay hoàn bị. Khiếm khuyết nếu ơn hiện tại chỉ phát sinh đôi ba việc, như khi tội nhân chuẩn bị hồi tâm sám hối ; hoàn bị, nếu phát sinh tất cả mọi hành vi, như nơi người đã được công chính hóa.
2. Ơn hiện tại có hai chức năng là cất nhắc và áp dụng.
1o) Chức năng áp dụng luôn luôn được thể hiện, trước cũng như sau việc công chính hóa, bất luận các tài năng của ta đã có những tập quán siêu nhiên hay không.
2o) Còn về chức năng cất nhắc thì :
a) Đối với tài năng chưa có tập quán siêu nhiên, ơn hiện tại cất nhắc :
-1. Vì tính cách siêu nhiên của hành vi mà tài năng ấy phát sinh.
-2. Vì hành vi phải thể hiện là đơn thuần và hoàn bị hơn tập quán.
-3. Vì sự hiện hữu của hành vi.
b) Đối với tài năng đã có tập quán siêu nhiên thì ơn hiện tại chỉ cất nhắc vì hai lý do -2. và -3.

Chương III
ÂN SỦNG CÓ THỰC SỰ
KHÁC VỚI NHÂN ĐỨC KHÔNG ?

Đặt vấn đề.- Ân sủng là thực tại siêu nhiên. Các nhân đức tập luyện là thực tại tự nhiên. Đàng khác, các nhân đức luân lý phú bẩm thì rõ ràng là khác với ân sủng, vì là những nhân đức thấp kém hơn các nhân đức thần hướng. Do đó không có vấn đề phải đặt ra.
Trong các nhân đức thần hướng, thì đức tin và đức cậy cũng khác với ơn thánh sủng, vì tội nhân vẫn có thể có hai nhân đức ấy mà không có ơn thánh sủng.
Như thế vấn đề được đặt ra với đức mến, vì không ai phủ nhận được : ở đâu có đức mến thì ở đó có ơn thánh hóa.
Ý kiến.- 1. Một số nhà thần học cho rằng ân sủng theo cơ bản thì đồng nhất với đức mến, có khác nhau là khác nhau về danh từ và về chức năng. Cũng một thực tại duy nhất như là điều làm cho Thiên Chúa hài lòng về ta, thì gọi là ân sủng ; còn như là căn nguyên của tình yêu Thiên Chúa thì gọi là thánh sủng. Đó là ý kiến của Phêrô Lombardo. Durandus, Henry Gandavensis, chân phước Scotus, thánh Bellarmino, Estius, Tournely và một vài vị khác.
2. Đa số các nhà thần học cho rằng ân sủng thực sự khác với đức mến.
1o) Alexander Hales và Thánh Bonaventura dù chủ trương sự khác biệt thực định, nhưng là khác biệt không tương ứng và tùy thể (disctintio inadaequata et accidentalis), như sự khác biệt giữa con dao và sắt hay kim loại để đúc dao.
2o) Thánh Toma và các môn đệ của người chủ trương sự khác biệt thực sự và tương ứng. Thánh Alberto, Phêrô Tarantasia và đa số các nhà thần học theo ý kiến này.
Luận đề XIII (LXXI) - Ơn thánh hóa và đức mến thì khác nhau thực sự và tương ứng như tập quán này với tập quán kia.
Chứng minh : 1.- Thánh kinh. Nguồn Mặc khải không minh thị dạy về điều này, nhưng chúng ta có thể tìm thấy những chỉ dẫn sau : "Cầu chúc toàn thể anh em được tràn đầy ân sủng (gratia) của Chúa Giêsu Kitô đầy tình thương (caritas) của Thiên Chúa và ơn thông hiệp của Thánh Thần Amen" (2 Cr 13,13). "Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng (gratia), cùng với đức tin và đức mến (dilec-tione) của một kẻ được kết hợp với Người" (1 Tm 1,14) ; "Nguyện xin Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em bình an và lòng mến (caritas) cùng với lòng tin. Xin Thiên Chúa ban ân sủng (gratia) cho tất cả những ai yêu mến Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (Ep 6, 23 - 24). Trong những trích dẫn ấy tiếng ân sủng và đức ái hay lòng mến được liệt kê như những điều khác nhau.
2. Đạo lý của Giáo hội .- Công đồng Trident. dạy : sự công chính hóa được thể hiện nhờ ân sủng và các hồng ân (gratia et dona), nhờ ân sủng và đức ái (gratia et caritas). Dĩ nhiên Công đồng không có ý giải quyết vấn đề mà các nhà thần học còn đang tranh luận. Công đồng Vienne công nhận là cái nhiên (probabilis) ý kiến cho rằng, việc công chính hóa các trẻ em trong bí tích Rửa tội thể hiện bằng cách ban ơn thánh hóa và các nhân đức (virtutes et informans gratia).
Sách giáo lý Roma dạy : Cùng với ân sủng và để tháp tùng ân sủng, là cả một lô những nhân đức cao trọng.
3. Lẽ thần học.- 1. Nhờ ơn công chính hóa và thánh sủng của phép Rửa tội, những trẻ nhỏ được tẩy sạch khỏi tội tổ truyền. Mà tội tổ truyền, vì là tội của bản tính, chế ngựû trong yếu tính của linh hồn. Cho nên thánh sủng phải được nhận vào yếu tính của linh hồn, để tẩy rửa nó khỏi tội tổ truyền, thánh hóa và cất nhắc nó lên bậc siêu nhiên.
Nhưng đức ái được nhận vào ý muốn, như thế là có chủ thể khác nhau. Cho nên công chính hóa hay thánh sủng và đức ái thực sự khác nhau.
2o) Đức ái, vì là nhân đức để chuẩn bị chủ thể hoạt động cho phù hợp với bản tính. Nhưng bản tính mà đức ái ngầm hiểu như điều khả dĩ được nó hoàn chỉnh và kiện toàn phải là bản tính siêu nhiên, hay là một sự thông dự bản tính Thiên Chúa trong linh hồn.

Chương IV
CHỦ THỂ RIÊNG BIỆT VÀ TRỰC TIẾP CỦA ÂN SỦNG PHẢI CHĂNG LÀ YẾU TÍNH CỦA LINH HỒN ?

Lý do của vấn đề.- Vấn đề này liên hệ mật thiết với vấn đề trên và lệ thuộc vào vấn đề đó. Những nhà thần học cho ân sủng đồng nhất với đức ái, tất nhiên phải cho chủ thể của ân sủng là ý muốn. Nhưng, như đã chứng minh, ân sủng khác với đức ái và các nhân đức, nên chủ thể của ân sủng không thể là những tài năng của con người. Vậy chủ thể riêng biệt của ơn thánh hóa hay thánh sủng là gì ?
Luận đề XVI (LXXII).- Chủ thể riêng biệt và trực tiếp của ơn thánh sủng là chính yếu tính của linh hồn.
Chứng minh.- 1. Thánh sủng là một phụ thể, nên đòi hỏi phải có một chủ thể. Chủ thể xa của mọi phụ thể luôn luôn là bản thể ; nhưng bản thể không luôn luôn là chủ thể gần của mọi phụ thể.
Chẳng hạn, tập quán hoạt động được thu nhận trực tiếp vào tài năng, và chỉ được thu nhận gián tiếp vào bản thể.
Vậy vì ân sủng thực sự khác biệt với các nhân đức cách tương ứng, nên chủ thể của thánh sủng không thể là những tài năng của linh hồn.
Cho nên chủ thể riêng biệt và trực tiếp của thánh sủng phải là yếu tính của linh hồn.
2. Thánh sủng là sự thông dự bản tính Thiên Chúa hay hữu thể thần linh.
Mà bản tính Thiên Chúa hay hữu thể thần linh chỉ có thể đón nhận vào yếu tính của linh hồn, như vào chủ thể riêng.
Cho nên chủ thể riêng biệt và trực tiếp của ân sủng là chính yếu tính của linh hồn.
3. Thánh sủng còn là căn nguyên mô thể của tử hệ thần linh và của sự tái sinh thiêng liêng của chúng ta.
Mà sự sinh sản ưu tiên và tự thể thành tựu nơi bản tính, chứ không phải nơi tài năng của người được sinh ra.
Chính hữu thể hay bản tính tự nhiên của con người đạt được hữu thể hay bản tính mới ; không ai được gọi là con vì cơ thể hoạt động như cha, mà vì có cùng một bản tính như cha.
Cho nên chủ thể riêng biệt và trực tiếp của thánh sủng là chính yếu tính của linh hồn.
4. Thánh sủng thanh tẩy con người khỏi tội tổ truyền mà tội này chủ trì trong yếu tính linh hồn, cho nên thánh sủng cũng phải có chủ thể riêng biệt là chính yếu tính của linh hồn.
Như thế khả năng mà ta cần phải công nhận nơi linh hồn, để đón nhận ân sủng không phải là khả năng tự nhiên, mà là khả năng tuân phục (potentia obedientialis).
Những đặc tính của thánh sủng
1o) Thánh sủng là căn nguyên phát sinh các nhân đức siêu nhiên vì :
a.- Bản tính của Thiên Chúa như là nguồn gốc của mọi ưu phẩm của Người. Như vậy giữa bản tính (hay yếu tính) của Thiên Chúa với các ưu phẩm của Người có một tương quan thực sự (relation réelle). Thánh sủng là sự thông dự vào bản tính Thiên Chúa, với những đặc trưng của nó cũng có một tương quan như là tương quan luận lý (hay là lý định).
Vậy như từ yếu tính của Thiên Chúa phát xuất các ưu phẩm của Người, thì cũng từ thánh sủng phát xuất các nhận đức siêu nhiên.
Cho nên, thánh sủng là căn nguyên phát xuất các nhân đức siêu nhiên.
b.- Vả lại ân sủng và các nhân đức, khi được thu nhận vào linh hồn, thì thích ứng với các hữu thể của linh hồn.
Phạm vi siêu nhiên thụ tạo và phụ thể cũng tương tự như phạm vi như nhiên.
Mà linh hồn là căn nguyên của các tài năng hoạt động. Cho nên thánh sủng là căn nguyên phát xuất các nhân đức.
2.- Thánh sủng chỉ là một loại duy nhất, nhưng có nhiều dị biệt phụ.
1o) Một loại duy nhất.- Thánh sủng là sự thông dự bản tính Thiên Chúa mà theo tính cách thì sự thông dự này chỉ có một cách duy nhất.
Những đặc trưng của thánh sủng như ánh vinh quang và đức ái thì đồng loại vì đối tượng của ánh vinh quang là yếu tính Thiên Chúa được chiêm ngưỡng nhãn tiền ; còn đối tượng của đức ái cũng chính là Thiên Chúa như cứu cánh siêu nhiên được yêu mến hết lòng.
2o) Nhưng có điều dị biệt phụ, vì thánh sủng là một phụ thể được đón nhận vào chủ thể, nên phải thích ứng với chủ thể ; là một phẩm tính, nên có thể gia tăng và phát triển. Thánh sủng trong những người hoàn thiện, của các thánh thì hoàn hảo hơn của những người mới tiến tới trong đời sống tâm linh.

ĐOẠN III
SỰ PHÂN BIỆT CÁC ÂN SỦNG

Ân sủng duy chỉ có một loại như ta đã thấy trước này. Sự phân biệt ở đây chỉ xét theo cách Thiên Chúa ban cho con người, hoặc xét theo công hiệu của ân sủng tác động trên con người. Chúng ta sẽ tìm hiểu trong các chương sau đây.

Chương I
ÂN SỦNG ĐƯỢC PHÂN BIỆT
THÀNH ƠN THÁNH SỦNG VÀ ƠN ĐOÀN SỦNG.
1. Ơn Thánh sủng (thánh hóa : gratia sanctificans) trực tiếp nhằm làm cho con người lĩnh nhận được nên thánh. Trái lại ơn đoàn sủng (charisma : ơn ban nhưng không) nhằm làm cho con người lĩnh nhận thánh hóa kẻ khác.
2. Người còn mắc tội không thể có ơn thánh sủng, nhưng có thể được ban ơn đoàn sủng.
3. Ơn thánh sủng nhằm vào những hành vi bên trong và bên ngoài ; còn ơn đoàn sủng đặc biệt nhằm vào những hành vi bên ngoài.
Luận đề XV (LXXII). Thực sự có ơn thánh sủng và ơn đoàn sủng.
Chứng minh.- 1. Thánh kinh.- Sau khi liệt kê những đoàn sủng khác nhau - hay những ơn ban nhưng không - Thánh Phaolô viết tiếp : "Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em, con đường trổi vượt hơn cả ... Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư ? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng ? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư ? Rồi cũng chẳng còn... Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến" (1 Cr 12, 31 ; 13, 8. 13). Trong những lời đó Thánh Phaolô phân biệt hai con đường trọn lành : con đường của những đoàn sủng - nhờ ơn ban nhưng không - được ban để mưu công ích (1 Cr 12,7) và một ngày kia sẽ không còn và con đường của nhân đức tin, cậy, mến, hướng vào sự thánh hóa bản thân mỗi người.
2. Lẽ thần học.- Mục đích riêng biệt của ân sủng là qui hướng con người về cùng Thiên Chúa được thực hiện theo những định luật của sự an bài của Thiên Chúa.
Trong sự an bài cũng như trong sự bảo toàn vạn vật, Thiên Chúa dùng thụ tạo cộng tác với Người. Như thế ân sủng Thiên Chúa ban cho con người ta có hai thứ : một thứ làm cho con người trực tiếp liên kết với Thiên Chúa ; còn thứ nữa chỉ giúp con người cộng tác trong việc hướng tha nhân về với Thiên Chúa.
Ơn thứ nhất gọi là thánh sủng (gratia sanctificans) nhờ đó con người được nên công chính, được kết hợp với Thiên Chúa, hay ít ra được chẩn bị - nhờ ơn hiện tại - để được công chính hóa. Ơn thứ hai gọi là đoàn sủng (Charisma) được ban để con người cộng tác vào việc công chính hóa tha nhân : được cung cấp vì công ích.
Với những điều kiện trên ta dễ nhận thấy ơn thánh hóa gồm cả ơn thường tại (gratia habitualis) và ơn hiện tại (gratia actualis).

Chương II
ƠN THÁNH SỦNG ĐƯỢC PHÂN BIỆT
THÀNH ƠN HOẠT ĐỘNG VÀ ƠN CỘNG TÁC.
Thánh Tôma áp dụng lối phân biệt này vào cả hai thứ : ơn hiện tại và ơn thường tại .
TIẾT I : ƠN HIỆN TẠI HOẠT ĐỘNG VÀ CỘNG TÁC.
Định nghĩa.- Ơn hiện tại hoạt động là khi chỉ có một căn nguyên duy nhất phát sinh một công hiệu, như trong một hành vi tự do, chỉ có ơn Chúa khởi động mà không có tự do ý chí của con người.
Còn ơn hiện tại cộng tác là khi ơn Chúa khởi động và có tự do ý chí của thụ tạo có lý trí (con người, thiên thần) tham gia trong một công hiệu.
Nguyên lý nhân quả. Một công hiệu luôn luôn được qui cho căn nguyên chủ động (motor) chứ không qui cho vật thụ động (mobilis). Như vậy, khi ân sủng của Thiên Chúa như căn nguyên chủ động, còn tự do ý chí như là căn nguyên thụ động của công hiệu được phát sinh, thì công hiệu ấy được gán cho Thiên Chúa và ta có ơn hiện tại hoạt động. Còn khi ân sủng của Thiên Chúa như căn nguyên chủ động, có sự tham gia của sự tự do của con người để phát sinh cũng một công hiệu được qui cho cả hai căn nguyên : đây là ơn hiện tại cộng tác.
Luận đề XVI (LXXIV). Phải công nhận là có ơn hiện tại hoạt động và ơn hiện tại cộng tác.
Chứng minh.- Một công hiệu luôn được qui về căn nguyên khởi động, mà không qui cho vật thụ động. Vậy trong công việc mà tâm trí của ta phát sinh do Thiên Chúa huy động, chứ không tự huy động ; trong trường hợp này ân sủng được gọi là ơn hoạt động. Nhưng trong công việc mà tâm trí ta vừa là vật thụ biến vừa là chủ căn thì công việc ấy không những được qui cho Thiên Chúa lại cho cả tâm trí ta nữa. Trong trường hợp này ân sủng được gọi là ơn hiện tại cộng tác.
Như vậy chúng ta có hai thứ hành vi : a) Khi ân sủng huy động để ý muốn có hành vi (hành vi này gọi là hành vi bên trong, như khi nói về trước đây đã ưa muốn điều ác, nay bắt đầu muốn điều thiện) : trường hợp này ân sủng được gọi là ơn hoạt động.
b) Nhưng khi ý muốn đã khởi sự một hành vi, và ân sủng Chúa củng cố ý muốn để hành vi được hoàn thành (hành vi này gọi là hành vi bên ngoài) : trường hợp này ân sủng được gọi là ơn cộng tác.
Do đó phải công nhận có cả ơn hiện tại hoạt động và ơn hiện tại cộng tác.
Nguyên lý để phân biệt. Để biết khi nào là ơn hoạt động, khi nào là ơn cộng tác, ta phân biệt hai thứ hành vi của ý muốn : hành vi bên ngoài và hành vi bên trong. Hành vi bên trong là hành vi trực phát của ý muốn. Ơn hoạt động tác động vào hành vi bên trong này. Hành vi bên ngoài là sự thừa lệnh hành vi của ý muốn, bao hàm tất cả các hành vi theo sau mệnh lệnh. Ơn cộng tác tác động vào hành vi này.
(Xem thêm giáo trình, mục a và b trang 181).
(Gratia operans còn gọi là proeveniens, antecedens, excitans)

Tiết II. Về ơn thường tại hoạt động và cộng tác
Luận đề XVII (LXXV). Phải công nhận có ơn thường tại hoạt động và cộng tác.
Chứng minh. Ơn thường tại là một mô thể được nhận vào linh hồn, và, như mô thể, sinh ra hai công hiệu : hữu thể và hoạt động.
Thực vậy, công hiệu đầu tiên của một mô thể là làm cho chủ thể đón nhận nó là thế này, thế nọ, rồi mới hướng nó vào hoạt động, ví dụ : nhiệt tố, như căn nguyên mô thể, trước hết và trên hết là phẩm định một vật, làm cho vật đó hóa nóng, cho nó trở thành hữu thể mới ; thứ đến mới qui hướng nó vào hoạt động, hay làm cho nó có thể thực hiện hành vi.
Ơn thường tại cũng có hai công hiệu đó : công hiệu tiên quyết và căn bản là cung cấp hữu thể thần linh cho linh hồn, như công chính hóa và đặc sủng hóa = ơn thường tại hoạt động (gratia habitualis operans) ; thứ đến là nguyên lý chủ động thực hiện hành vi có công trạng, cũng phát xuất từ sự tự do ý chí của ta = ơn thường tại cộng tác (gratia habitualis cooperans).
Cho nên phải công nhận có ơn thường tại hoạt động và cộng tác.
Vai trò của linh hồn trong mỗi ơn. a) Về hữu thể thần linh, ân sủng là căn nguyên mô thể duy nhất ; linh hồn chỉ là tài năng thụ động tuân nhận (Potentia passiva oboedientialis)
b) Về hành vi có công trạng, ân sủng và ý muốn cộng tác cách chủ động để phát sinh. Chúng ta dễ nhận ra sự tương đồng giữa ơn hoạt động và ơn cộng tác trong hai thứ ơn hiện tại và ơn thường tại
Trong ơn thường tại cũng như trong ơn hiện tại, ơn hoạt động luôn luôn nhằm vào điều chủ yếu và căn bản, còn ơn cộng tác nhằm vào điều thứ yếu và tùy tòng.
Trong ơn thường tại cũng như trong ơn hiện tại, ơn hoạt động luôn luôn là chủ căn duy nhất ; còn ơn cộng tác luôn luôn có hai căn nguyên : ân sủng là nguyên nhân và ý muốn tự do là chủ căn thụ biến.
Theo thánh Toma, ơn hoạt động và ơn cộng tác là một ân sủng hay là một thực tại duy nhất với hai chức năng, hay là hai công hiệu, nghĩa là khi thực hiện chức năng nầy thì gọi là ơn hoạt động, khi thực hiện chức năng kia thì gọi là ơn cộng tác.

Chương III
SỰ TÁI PHÂN CỦA ƠN ĐOÀN SỦNG
I. Phân chia các ơn đoàn sủng. Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Corinthô, đoạn 12 câu 8-10, Thánh Phaolô đã liệt kê các đặc sủng như thế này :

Nhận biết chân lý thần linh
1. Lời khôn ngoan
2. Lời hiểu biết
3. Đức tin

Củng cố chân lý thần linh
4. Ơn chữa bệnh
5. Làm phép lạ
6. Tiên tri tiên liệu
7. Biện phân các tâm hồn
Trình bày chân lý thần linh
8. Biết các ngôn ngữ
9. Giải thích các ngôn ngữ
II. Những điều kiện để giải thích chân lý thần linh
Thánh Toma đã giải thích cách thánh Phaolô phân chia như thế này :
Mục đích riêng của ơn đoàn sủng là hướng dẫn tha nhân về với Thiên Chúa. Nhưng vì phàm nhân không thể họat động trực tiếp vào tâm trí tha nhân, nên cần phải nhờ đến sự khuyến dụ bên ngoài. Biện pháp khuyến dụ này nhất thiết đòi hỏi ba điều kiện dưới đây :
1. Nhận biết chắc chắn và khúc chiết những chân lý thần linh mà ta phải dạy dỗ.
2. Chứng minh những chân lý ấy. Nhưng vì bàn về những chân lý siêu nhiên mà ta không thể viện vào những lý chứng tự nhiên, nên cần phải củng cố các chân lý ấy bằng những sự kiện siêu nhiên, thần linh, bảo đảm cho chân lý tuyệt đối.
3. Cũng cần phải có tài năng và kỹ năng riêng, để trình bày những chân lý thần linh.
III. Hệ thống hóa các ơn đoàn sủng
Căn cứ vào ba điều kiện ấy, thánh Toma đã xếp đặt các đặc sủng của thánh Phaolô như sau :
A. Nhận biết đầy đủ :
a) Các nguyên lý đức tin,
b) Các kết luận :
1. Chính yếu : điều thần linh - lời thông minh.
2. Thứ yếu : điều phàm trần - ngôn ngữ
- khoa học
B. Tài năng trình bày chân lý thần linh
a) Về ngôn ngữ bên ngoài : Ơn biết tiếng lạ
b) Về nội dung ý nghĩa : Ơn giải thích tiếng lạ
C. Cũng cố chân lý thần linh bằng sự :
a) Bằng quyền toàn năng Thiên Chúa
Do sự cao cả - ơn làm phép lạ
do cả hồng ân - ơn chữa bệnh
b) Bằng sự thông minh vô cùng của Thiên Chúa
Dự kiến tương lai - ơn ngôn sứ
Thấu suốt tâm can - ơn biện phân tâm hồn.
Sự phân chia trên đây đại để theo những lẽ xứng hợp, thích đáng.
Lại ở đây "Đức tin" không có ý chỉ nhân đức thần hướng (nghĩa là chấp nhận những chân lý Chúa mặc khải) mà có ý chỉ sự chắc chắn khác thường của những chân lý thần linh. Nhờ đó con người có khả năng dạy dỗ tha nhân về những chân lý ấy.
Thông minh và khoa học, xét như những ơn đoàn sủng ám chỉ sự thông thái và kiến thức dồi dào, nhờ đó, con người chẵng những hiểu đúng về những chân lý thần linh, lại còn có thể dạy dỗ và bảo vệ những chân lý ấy, phi bác những lý lẽ phản ngược.
IV. Hệ luận. Ơn thánh hóa thì quí giá hơn ơn đoàn sủng.
Chúng ta phải công nhận rằng : ơn thánh hóa thì quí giá và trác tuyệt hơn những ơn đoàn sủng. Trước hết thánh Phaolô đã minh bạch xác định điều đó, vì sau khi liệt kê các ơn đoàn sủng, người viết tiếp : "Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn (1 Cr 12, 31). Rồi người nói đến đức tin, cậy, mến, nhất là đức mến (1Cr 13, 1-13).
Lý trí cũng cho ta thấy như thế. Nhân đức nào càng qui hướng chúng ta về mục đích cao cả và quí trọng hơn càng là nhân đức quí giá và trác tuyệt.
Quả vậy, mục đích nguyên là cao trọng hơn phương tiện và trong các mục đích, mục đích trực tiếp là phương tiện để đạt tới cứu cánh. Mà mục đích của ơn thánh là trực tiếp phối hiệp chúng ta với cứu cánh là Thiên Chúa ; còn mục đích của ơn đoàn sủng là chuẩn bị cho con người được sẵn sàng thực hiện việc phối hiệp ấy.
Do đó, ơn đoàn sủng thì hướng về ơn thánh hóa như phương tiện hướng về mục đích. Vì thế, phải nói rằng ơn thánh hóa thì quí trọng và trác tuyệt hơn cả ơn đoàn sủng.



Chhương IV
CÁCH PHÂN CHIA THÔNG DỤNG

Sau thời thánh Tôma, thần học còn chia ân sủng thành : ơn khích lệ (excitans), ơn hộ giúp (adjuvans), ơn đầy đủ (sufficiens) và ơn hiệu nghiệm (efficax). Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến ơn đầy đủ và ơn hiệu nghiệm.
Ơn khích lệ và ơn hộ giúp không khác xa ơn hoạt động và ơn cộng tác.

Tiết I. Những vấn đề tín lý về ơn đầy đủ
Khái niệm.- Ơn đầy đủ là ơn ban nghị lực, khả năng để hành động. Mọi ơn hiệu nghiệm đều hàm chứa ơn đầy đủ, vì kẻ ban sự thực hiện thì cũng ban khả năng để thực hiện, "de facto ad potentiam valet consequentia". Không ai hoài nghi về sự ơn đầy đủ được hàm chứa trong ơn hiệu nghiệm. Nhưng người Thệ phản và Jansenio phủ nhận điều nầy và tách biệt hai ơn đầy đủ và ơn hiệu nghiệm.
Luận đề XVIII (LXXIX) : Trong bậc được cứu chuộc hiện nay, thực sự có ơn trợ giúp của Thiên Chúa, là ơn đầy đủ, ơn ban cho con người khả năng hoạt động lành mạnh để đạt tới phúc trường sinh.
Chứng minh. 1. Thánh kinh. "Suốt ngày Ta đưa tay kêu gọi một dân ngỗ nghịch, bọn người theo ý riêng mà đi trong đường tà" (Is. 65,2) ; " Khốn cho ngươi hỡi Corozaim ! Khốn cho ngươi hỡi Bethsaida ! vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tyr và Sidon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro trên đầu và tỏ lòng sám hối" (Mt. 11,21); "Hỡi những người cứng đầu, cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn chống lại Thánh Thần. Cha ông các ông thế nào thì các ông cũng vậy." (Cv. 7,51); " Vì được cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi khuyên nhủ anh em : anh em đã lĩnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng trở nên vô hiệu" (2Cr. 6,1); "Anh em đừng dập tắt Thánh Linh" (1Thes. 5,19; Xc Kh.3,20).
2. Đạo lý của Giáo hội. Công đồng Orange II đã ấn định là sau khi đã nhận được ơn thánh tẩy, mọi tín hữu nếu muốn trung thành hành động, thì nhờ Chúa Giêsu trợ giúp và cộng tác, có thể và phải giữ trọn mọi điều giúp rỗi linh hồn. Công đồng Valentin III dạy : "Những người gian ác hư đi, không phải vì không thể, mà vì không muốn trở nên tốt lành". CĐC Laterano IV dạy rằng, nếu ai, sau khi chịu phép rửa tội, ngã phạm tội nào, vẫn luôn luôn có thể nhờ sự chân thành sám hối mà sửa lại ; CĐC Trident. đã ấn dịnh rằng : "Những giới răn của Thiên Chúa không phải là những điều mà người công chính không thể giữ, vì Thiên Chúa không truyền những điều bất thể". Sau hết, Giáo hội đã luận phi nhiều chủ trương của Baii, Jansenii, Quesnel và của Công đồng Pistoie, cho rằng người công chính không thể giữ những giới răn của Thiên Chúa ; hoặc cho rằng không có ơn đầy đủ.
3. Lẽ thần học. 1o) Thiên Chúa trung thành muốn cho mọi người được cứu độ. Mà ai trung thành muốn đạt tới đích thì cũng phải đưa ra những phương tiện cần thiết. Vì thế nếu Thiên Chúa trung thành muốn cho mọi người được cứu độ, Người cũng phải ban cho mọi người những phương tiện siêu nhiên cần thiết để họ được cứu độ. Cho nên mọi người phải có những phương tiện vừa đủ dù trong thực tế không phải mọi người được cứu độ. Do đó có những ơn vừa đủ thật, dù chỉ là vừa đủ suông.
2o) Việc tuân giữ giới răn là điều tuyệt đối cần thiết để được cứu độ. Nhưng con người không thể giữ các giới răn nếu không có ân sủng. Vậy việc Thiên Chúa truyền cho con người phải giữ trọn giới răn ngầm hiểu là Người ban những phương tiện hay những nghị lực cần thiết để giữ. Nhưng trong thực tế không phải mọi người tuân giữ. Cho nên có những ơn vừa đủ thật, nhưng chỉ là vừa đủ suông.
Hệ luận.- 1. Thiên Chúa ban cho mọi người những trợ giúp cần thiết và đầy đủ, nhưng không bằng nhau. Ban vừa đủ và ban bằng nhau là hai điều khác nhau. Thiên Chúa ban ơn trợ giúp cần thiết và vừa đủ cho mọi người để được hối cải và được rỗi. Nhưng có kẻ, Người ban từng bước, nếu không ngăn trở, Người sẽ ban tiếp ; có kẻ Người ban trực tiếp để được hối cải và được cứu độ. Người xử trí như sở hữu tuyệt đối những hồng ân của mình.
2. Thiên Chúa ban những trợ giúp ấy có thể trong những trường hợp sau :
a) Khi con người đến tuổi khôn.
b) Khi con người buộc chu toàn một điều răn siêu nhiên.
c) khi con người đương đầu với chước cám dỗ nặng nề.
d) khi con người ở trong tình trạng nguy tử. Ngoài những trường hợp có phần chắc ấy, Thiên Chúa vẫn ban vào lúc, tại nơi và cách thức Người muốn.

Tiết II. Những vấn đề tín lý đối với ơn hiệu nghiệm
Sẽ có hai vấn đề : thực hữu của ơn hiệu nghiệm và đặc trưng của ơn hiệu nghiệm.

§ 1. Thực hữu của ơn hiệu nghiệm
Khái niệm. Ơn hiệu nghiệm (gratia efficax) là ơn cùng với khả năng, ban cho ta thực sự hoạt động. Thông thường, tiếng hiệu nghiệm có thể chỉ tính cách một năng lực, hoặc chỉ việc thực thi một công việc, có khi chỉ kết quả của công việc. Ví dụ, nói thuốc hiệu nghiệm là chỉ thuốc có hoạt lực cao, hoặc thuốc làm giảm bệnh. Trong thần học ơn hiệu nghiệm được hiểu là ơn làm cho hoạt động thực sự. Nhưng một căn nguyên có thể phát sinh công hiệu hai cách : cách hữu nghiệm và cách vô nghiệm. Phát sinh vô nghiệm là khi hành động có thể bị ngăn trở, và do đó không sinh công hiệu. Phát sinh hữu nghiệm là khi hành động không bị cản trở. Những điều trên đây cũng xảy ra với ơn hiện tại khi thực sự hoạt động, nghĩa là có thể bị cản trở hoặc không bị cản trở.
Quan niệm đầy đủ về ơn hiệu nghiệm hàm súc hai điều : phát sinh hành vi, và phát sinh một cách hữu nghiệm.
Luận đề XIX (LXXXI) : Với ơn hiệu nghiệm, Thiên Chúa phát sinh trong ta những hoạt động siêu nhiên.
Chứng minh. 1. Thánh Kinh. "Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người " (Pl. 2,13); "Lạy Đức Chúa, Ngài cho chúng con được an cư lạc nghiệp, vì hết mọi việc chúng con làm đều do Ngài thực hiện cho chúng con"(Is.26,12); "Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Tôi không lôi kéo người ấy" (Ga. 6,44); "Thiên Chúa là nguồn mạch bình an..... Xin Thiên Chúa ban cho anh em mọi ơn lành để có sức thi hành thánh ý Người. Xin Người thực hiện nơi anh em điều đẹp lòng Người" (Dt.13,20-21); "Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người"(1Cr. 12,6).
2. Huấn quyền của Giáo hội. CĐ Orenge cũng như Trident. đều xác định rằng Thiên Chúa là căn nguyên mọi tư tưởng lành thánh, mọi cảm tình tốt lành và mọi công trình mang ơn cứu độ, mà con người thực hiện để sống đời đời.
3. Lẽ thần học. Khi hoạt động siêu nhiên, hoặc đã được trang bị những tập quán siêu nhiên, hoặc còn thiếu những tập quán ấy. Nếu còn thiếu thì cần phải được huy động bởi ơn khởi động của Thiên Chúa, là ơn cất nhắc tài năng, ban cho nó khả năng (posse) và áp dụng nó vào hoạt động. Nếu đã có tập quán siêu nhiên, lúc đó cần ơn khởi động áp dụng nó vào hoạt động. Đây là huy động tiền ứng (proemotio) trong phạm vi siêu nhiên.

§ II. Những đặc trưng của ơn hiệu nghiệm
1. Ơn hiệu nghiệm hữu hiệu không cản trở hoạt động của chúng ta, lại còn là căn nguyên của hoạt động ấy nữa. Đây là điều CĐC Trident. đã dạy, khi phi bác lạc thuyết của Luther và Calvin. Những hành vi thực hiện dưới ảnh hưởng của ơn hiệu nghiệm hữu hiệu là những hành vi sống động, nên phải được phát xuất từ sinh vật; và có công trạng, nên nhất thiết phải ngầm hiểu sự tự do.
2. Ơn hiệu nghiệm hữu hiệu không thủ tiêu sự tự do mà còn phát sinh, tăng cường và bảo tồn. Luther, Calvin chủ trương rằng do ơn hiệu nghiệm hữu hiệu, Thiên Chúa cưỡng bức ý muốn một cách thể lý, như vậy là tiêu diệt sự tự do ; Jansenio thì cho rằng dưới ảnh hưởng của ơn hiệu nghiệm, ý muốn vẫn tự do nhưng bị câu thúc cách luân lý do sự hoan lạc lớn lao chế ngự. Lạc thuyết nầy cũng đã bị CĐC Trident luận phi. Các hành vi thể hiện dưới ảnh hưởng của ơn hiệu nghiệm là hành vi có công trạng đáng thưởng đời sau. Mà công trạng ngầm hiểu sự tự do không bị cưỡng bức, mà cả sự tự do không lệ thuộc một thứ tất yếu nào.
3. Ơn hiệu nghiệm hữu hiệu không tiêu diệt khả năng chống cự, là khả năng vẫn luôn tồn tại nơi ý muốn đã được ân sủng huy động. Đây là đạo lý được Giáo hội khẳng định trong CĐC Trident và Vaticano II. Khả năng chống cự nầy hàm chứa trong sự tự do. Nếu chống cự thực sự thì lập tức không còn phải là ơn hiệu nghiệm hữu hiệu.
4. Ơn hiệu nghiệm hữu hiệu công chính hóa và ơn bền độ cho đến cùng, được ban cho mọi người được tiền định và chỉ ban cho những người ấy. Ơn hiệu nghiệm công chính hóa mà thôi cũng được ban cho nhiều người không được tiền định, dù không phải cho mọi người, vì có nhiều người không bao giờ được công chính hóa. Lý do thứ nhất là vì con người không luôn luôn hưởng ứng ơn vừa đủ.



Đoạn IV
NGUYÊN NHÂN CỦA ÂN SỦNG
Sau khi bàn đến chính ân sủng theo nội căn là chất thể và mô thể, bây giờ bàn đến ngoại căn cùng những yếu tố bên ngoài, rồi đến những công hiệu của ân sủng.

Chương I
CĂN NGUYÊN TÁC THÀNH CỦA ÂN SỦNG.
Tiết I. Căn nguyên thể lý chính của ân sủng.
Luận đề XX (LXXXIV) : Chỉ một mình Thiên Chúa là căn nguyên thể lý chính của ân sủng.
Chứng minh.- 1. Thánh Kinh : "Thật, tôi bảo thật các ông : không ai có thể vào nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần" (1 Ga 3,5) ;"...anh em hãy xem, Chúa Cha yêu quí chúng ta dường nào : người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa - mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa" (1 Ga 3,1). "Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa" (1Ga 4,7) "Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5);"Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ trở nên Con Thiên Chúa. Họ được sinh ra không phải do khí huyết, cũng không phải do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa" (Ga 1, 12-13).
2. Đạo lý của Hội Thánh : CĐC Trident đã trịnh trọng dạy rằng, tác căn của ân sủng là "lòng thương xót của Thiên Chúa, đã tẩy rửa và thánh hóa chúng ta cách nhưng không, đóng ấn và xức dầu cho chúng ta bằng Thánh Thần Người đã hứa, là bảo đảm quyền thừa kế cho chúng ta. (D.S.799 /1529, trang 135, c1).
3. Lẽ thần học. 1o) Tiên thiên : a) Về chính đặc ân của ân sủng.- Ân sủng, như đã nói ở trên, là thông dự bản tính Thiên Chúa dù chỉ là loại suy. Nhưng ngoài Thiên Chúa ra thì không ai có thể cung cấp sự thông dự bản tính Thiên Chúa cho tạo vật của Người.
b) Về phía mục đích của ân sủng.- Mục đích bản nhiên của ân sủng là hạnh phúc vĩnh cửu, tức là hưởng nhan Thiên Chúa. Vậy ân sủng được ban cho linh hồn là để hướng dẫn linh hồn đến hạnh phúc ấy. Vậy mà chỉ có người làm chủ sở hữu những điều thiện của mình, mới có thể hướng người khác đến điều thiện ấy. Mà Thiên Chúa là Chủ và là Chúa tể hạnh phúc riêng của mình.
c) Về phía chủ thể đón nhận ân sủng.- Chủ thể riêng đón nhận ân sủng, là yết tính của linh hồn. Nhưng chỉ có Thiên Chúa mới có thể hoạt động trong yếu tính của linh hồn. Nên chỉ một mình Thiên Chúa là căn nguyên chính của ân sủng.
2o) Hậu nghiệm : Do những công hiệu khác nhau.
a) Công hiệu chủ yếu mà ân sủng thông cho phàm nhân là thần hóa nó. Vậy ngoài Thiên Chúa không ai có thể thần hóa ai cả.
b) Công hiêu thứ hai của ân sủng là làm cho người lĩnh nhận trở thành dưỡng tử. Nhưng chỉ có nghĩa phụ mới làm cho một người trở thành dưỡng tử.
c) Nhờ ân sủng và cùng với ân sủng - Chúa Thánh Thần, như là căn nguyên mô thể, được ban cho chúng ta cùng với ân sủng. Nhưng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban Chúa Thánh Thần.

Tiết II. Căn nguyên luân lý chính của ân sủng.
Căn nguyên luân lý chính, hay căn nguyên lập công trạng chính là Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa Cha ; Người đã dùng cuộc khổ nạn và cái chết của mình mà lập công thánh hóa cùng đền bù Chúa Cha thay cho chúng ta.
Chúa Giêsu đã thực hiện căn nguyên luân lý này bốn cách : lập công, đền bù, hy tế và cứu chuộc.

Tiết III. Dụng căn của ân sủng.
Có hai dụng căn : dụng căn đệ nhất và cơ bản là bản tính nhân loại của Chúa Giêsu ; dụng căn thứ yếu là các nhiệm tích.
Bản tính nhân loại của Chúa Giêsu là dụng cụ gắn liền với bản tính Thiên Chúa ; trái lại các nhiệm tích là những dụng căn rời. Nhận được sức mạnh bởi cuộc tử nạn của Chúa Giêsu.

Chương II
VỀ CĂN NGUYÊN CHUẨN BỊ CỦA ÂN SỦNG.
Tiết I. Những thứ chuẩn bị.
Thánh Toma đã cẩn thận phân biệt hai thứ : chuẩn bị xa và chuẩn bị gần (cũng gọi là vị toàn và hoàn bị).
I - Những đặc tính của việc chuẩn bị bị xa (vị toàn)
1o) Có trước sự công chính hóa, đôi khi không đạt tới sự công chính hóa do khuyết điểm của phàm nhân,
2o) Không phải là công trạng đáng được công chính hóa chẳng kỳ là công xứng đáng (condigno) hay công xứng hợp (de congruo) theo nghĩa thực danh mà chỉ là công trạng theo nghĩa rộng như lời cầu xin.
3o) Không phải chớp nhoáng, nhưng tuần tự.
4o) Không tuyệt đối cần thiết, vì đôi khi có sự công chính hóa mà không có sự chuẩn bị này.
5o) Không phát sinh do ơn hiện tại.
II. Những đặc trưng của việc chuẩn bị gần (hoàn bị).
1o) Xảy ra đồng thời với sự công chính hóa và thuộc về chính bản thể của sự công chính hóa.
2o) Có công trạng không phải để được ân sủng, vì ân sủng đã có trong linh hồn, nhưng để được vinh quang, và đây là công trạng xứng đáng.
3o) Không phải là tuần tự mà ngay lập tức
4o) Tuyệt đối cần thiết nơi những người đến tuổi khôn để được công chính hóa.
5o) Phát xuất từ ơn thường tại, đã có trong linh hồn, như từ gốc rễ.
III. Những hành vi hợp thành việc chuẩn bị xa hay gần.
CĐC Trentô (D.S. 798/1528) Còn nói đến những hành vi sau đây cũng là việc chuẩn bị xa hoặc gần.
1o) Hành vi tin tưởng, nhờ đó những người đã đến tuổi khôn chấp nhận tất cả những chân lý đã được Thiên Chúa mặc khải và phán hứa, nhất là việc Thiên Chúa công chính hóa kẻ gian ác và tội lỗi bằng ân sủng của Đấng Cứu Chuộc.
2o) Hành vi kính sợ, giúp ta kinh hãi trước sự nghiêm minh của Thiên Chúa công bình và trước vô vàn tội lỗi nặng nề của ta.
3o) Hành vi hy vọng, nhờ đó tội nhân cảm thấy phấn khởi và mạnh dạn hy vọng vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa sẽ tha thứ cho, vì công nghiệp Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô.
4o) Hành vi yêu mến sơ khởi (chưa phải là hành vi của đức ái) nhờ đó tội nhân bắt đầu yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự công chính và thánh thiện.
5o) Hành vi thống hối không trọn, nhờ đó tội nhân gớm ghét và ghê tởm mọi tiền khiên, quyết chí đổi mới và lĩnh nhận bí tích Rửa Tội hay Giải Tội.
Trong các hành vi trên, chỉ có hành vi thứ nhất thuộc lý trí, còn các hành vi khác thuộc ý muốn.
IV. Hai hành vi riêng biệt : Đức ái và thống hối trọn
Đức ái và thống hối cách trọn là hai hành vi riêng biệt và đặc trưng của việc chuẩn bị gần.
Đối với người đến tuổi không, để được công chính hóa bằng bí tích Rửa tội hay Giải tội, thì chỉ cần và đủ có sự chuẩn bị xa. Nhưng để được công chính hóa ngoài bí tích thì tuyệt đối phải có đức ái và thống hối cách trọn.
Trong lúc công chính hóa một tội nhân, luôn luôn có cách chắc chắn, minh nhiên hoặc mặc nhiên, những hành vi của đức tin, đức cậy, đức ái và của thống hối cách trọn.
Những hành vi đó là công hiệu của ơn hoạt động.
Thường thường Thiên Chúa chuẩn bị lần đầu cho việc công chính hóa từ xa đến gần. Nhưng đôi lúc Thiên Chúa cũng chuẩn bị cho tội nhân một cách hoàn bị và dứt khoát, như trường hợp thánh nữ Magdalenna và thánh Phaolô tông đồ.

Tiết II. Sự cần thiết của việc chuẩn bị để lĩnh ân sủng
Đối với ơn hiện tại, không thể có sự chuẩn bị nào cả. Nên đây chỉ nói đến sự cần thiết của việc chuẩn bị để lĩnh nhận ơn thường tại.
Luận đề XXI (LXXXVI) : Để lĩnh nhận ơn thánh (ơn thường tại), cần thiết có sự chuẩn bị.
Giáo phái Luther và Calvin không công nhận có sự cần thiết của bất cứ sự chuẩn bị nào, cho sự công chính hóa. Tất cả mọi việc phàm nhân làm trước sự công chính hóa đều là tội, và người ta càng cố gắng càng lỗi phạm. Trong sự công chính hóa, phàm nhân phải hoàn toàn thụ động như dụng cụ vô hồn.
Chứng minh.- Ơn thường tại là một mô thể siêu nhiên. Vậy, vì là mô thể, ơn thường tại đòi hỏi chủ thể đón nhận phải chuẩn bị trước hầu có đủ điều kiện xứng hợp với mô thể (tức là ân sủng). Vì là siêu nhiên, mọi thứ chuẩn bị (xa hay gần) nhất thiết phải là siêu nhiên.
Luận đề XXII (LXXXVII) : Với người đã đến tuổi khôn, sự chuẩn bị để đón nhận ơn thánh hệ tại những hành vi siêu nhiên họ thực hiện để chuẩn bị cho sự công chính hóa.
Chứng minh.- 1. Thánh Kinh. "Nào muôn dân khắp cõi địa cầu, hãy hướng về Ta, thì các ngươi sẽ được cứu độ" (Js 45,22) ; "Trở về đi, hỡi lũ con phản bội, Ta sẽ chữa lành tội phản bội của các ngươi" (Gr 3,22) ; "Vì thế hỡi nhà Israel, Ta sẽ xét xử các ngươi : ai nấy theo đường lối của mình - sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng. Hãy trở lại, hãy từ bỏ mọi tội phản nghịch của các ngươi, chẳng còn chướng ngại nào làm các ngươi phạm tội nữa... Hãy tạo cho mình một trái tim mới. Hỡi nhà Israel, tại sao các ngươi lại muốn chết ? Quả thật, Ta không vui thích về cái chết của kẻ phải chết - Sấm ngôn của Đúc Chúa là Chúa Thượng - Vậy hãy trở lại và hãy sống" (Ed 18, 30-32) ; "Hãy trở lại với Ta, và Ta sẽ trở lại với các ngươi, Đức Chúa các đạo binh phán" (Dcr 1,3 xc Ml 3,7) ; "Nếu anh em hết lòng trở về với Đức Chúa thì hãy loại bỏ các thần ngoại bang và đừng để các nữ thần Astharoth ở giữa anh em ; hãy hướng lòng anh em về với Đức Chúa và phụng sự một mình Người, thì Người sẽ giải thoát anh em khỏi tay người Philisthin" (1Sm 7,3) ; "Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ ! Từ chốn tử vong, chỗi dậy đi nào ! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi !" (Ep 6,14) ; "Hãy đến gần Thiên Chúa, Người sẽ đến gần anh em. Hỡi tội nhân, hãy rửa tayü cho sạch ; hỡi kẻ hai lòng, hãy tẩy luyện tâm can" (Gc 4,8) ; "Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì hãy đến với tôi" (Ga 6,45) ; "Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta" (Kh 3,20).
2. Đạo lý của Hội Thánh.- CĐC Trident đã ấn định, chống lại giáo phái Luther và Calvin, về sự cần thiết phải chuẩn bị cho được công chính hóa, lại cũng chỉ dẫn một số hành vi mà tội nhân phải làm để chuẩn bị dần dần lĩnh ơn thánh hóa.
3. Lẽ thần học.- 1o) (Về phía Thiên Chúa) Thiên Chúa hoạt động nơi các vật theo cách thức riêng của mỗi vật. Vì thế nơi con người tự do, Thiên Chúa hoạt động bằng cách huy động con người tự do hướng về sự công chính hóa, để như vậy chính con người là kẻ tự ý bỏ tội lỗi và liên kết với Thiên Chúa như cứu cánh đích thực của mình.
2o) (Về phía con người được công chính hóa) Những tội nhân (đã đến tuổi khôn) do hành vi riêng và nhân bản của ý muốn, từ bỏ Thiên Chúa mà tìm đến điều thiện tạm bợ. Vì vậy cũng cần phải dùng hành vi riêng và nhân bản của ý muốn mà từ bỏ điều thiện tạm bợ (hành vi sám hối) mà quay về với Thiên Chúa là cứu cánh đích thực của mình (hành vi tin, cậy, mến)..
Nơi người lớn (đến tuổi khôn) để lĩnh ơn công chính hóa, cần có hai thứ chuẩn bị : chuẩn bị xa rồi đến chuẩn bị sau cùng. Đó là đường lối thông thường hay là có phối trí của Thiên Chúa nhưng Người cũng có thể xử trí cách khác thường như trường hợp thánh tông đồ Phaolô (trang 74). Việc chuẩn bị nầy cùng hệ tại hành vi của đức ái và của thống hối cách trọn.

Tiết III : Bản tính của sự chuẩn bị
Đặt vấn đề.- Việc chuẩn bị để tiếp nhận một mô thể có thể là luân lý hay thể lý. Việc chuẩn bị luân lý hệ tại việc cầu nguyện. Trái lại sự chuẩn bị thể lý hệ tại làm cho chủ thể hợp với mô thể.
Công trạng không tham gia vào việc chuẩn bị để lĩnh nhận ân sủng. Đó là điều đã được CĐC Trident dùng quyền vô ngộ để xác định. Sự chuẩn bị để lĩnh ân sủng có gía trị như việc thỉnh cầu đó là điều không ai tranh luận. Vậy, phải quan niệm việc chuẩn bị này là luân lý hay thể lý.
Hai cách giải đáp : Một số nhà thần học cho việc chuẩn bị chỉ có tính cách luân lý. Còn thánh Toma và đa số đệ tử của người chủ trương rằng việc chuẩn bị này có cả hai tính cách luân lý và thể lý.
Tính cách luân lý và thể lý của việc chuẩn bị : Muốn xác nhận là việc chuẩn bị để lĩnh ân sủng có cả hai tính cách luân lý và thể lý, chỉ cần so sánh việc chuẩn bị này với bất cứ một việc chuẩn bị của chủ thể tự nhiên nào để nhận một mô thể như chuẩn bị cành cây tươi để làm củi đốt.
Vả lại sự chuẩn bị hoàn bị là do ơn thường tại tác thành đồng thời sự chuẩn bị này lại là căn nguyên (chất thể) của ơn thường tại. Mà điều đó chỉ thể hiện trong thứ chuẩn bị thể lý.
Sau hết chuẩn bị thể lý là thanh tẩy chủ thể khỏi những thể thức tương phản với mô thể sẽ được lĩnh nhận, đồng thời làm cho chủ thể thích ứng, tương hợp với tình trạng của mô thể mới. Điều xảy ra trong việc chuẩn bị cho ân sủng cũng giống như thế. Nhờ những hành vi ân hận, hối tiếc, đau đớn mà tâm hồn tội nhân đoạn tuyệt với những tình cảm tội lỗi, nghịch với việc thông ban ân sủng; lại nhờ những hành vi tin, cậy, mến tội nhân lại gần với Thiên Chúa, là Đấng thông ban ân sủng. Đây là một chuyển biến từ chỗ dứt khoát với tội lỗi, đến gặp gỡ Thiên Chúa.

Chương III
VỀ MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA SỰ CHUẨN BỊ
VÀ SỰ LĨNH NHẬN ÂN SỦNG.
Vấn đề đặt ra để tìm hiểu việc chuẩn bị có luôn luôn dẫn con người đến lĩnh nhận ân sủng một cách hiệu nghiệm không ? Ơn hiện tại ảnh hưởng thế nào đến việc chuẩn bị ? Phải chăng ơn hiện tại dẫn con người đến ơn thường tại hoặc là đến sự công chính hóa một cách hiệu nghiệm.

Tiết I. Mối tương quan giữa sự chuẩn bị và ơn thánh hóa.
Vốn sự chuẩn bị cho ân sủng là công hiệu của hai nguyên nhân : của tự do ý chí và của ân sủng. Cho nên phải xét vấn đề về cả hai phía,
1. Xét về phía tự do ý chí của con người, thì không có tương quan nào giữa sự chuẩn bị và sự lĩnh nhận ân sủng. Bởi vì việc lĩnh nhận ân sủng, hay nói đúng hơn là việc thông ban ân sủng không hoàn toàn lệ thuộc vào sự ưng thuận của tự do ý chí; nên việc lĩnh nhận ân sủng ấy vượt quá tầm mọi sự chuẩn bị xét như phát xuất từ tự do ý chí
2. Còn việc chuẩn bị cách hoàn hảo (chuẩn bị gần) bằng những hành vi bác ái và thống hối cách trọn, thì luôn luôn dẫn đến lĩnh nhận ơn thánh cách hiệu nghiệm.
Bởi vì việc chuẩn bị hoàn hảo như thế được thực hiện do ơn thường tại, vốn hiện hữu trong linh hồn ; lại vì những hành vi chuẩn bị này là công hiệu của ơn hoạt động.
Thánh Kinh cũng cho thấy mối tương quan này : "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23).
Hệ luận.- 1. Hiển nhiên là sự chuẩn bị xa, tự bản tính, hướng tới sự chuẩn bị gần và trực tiếp ; và cả hai hướng tới việc đạt được ân sủng. Việc phối trí là do Thiên Chúa nhưng với ý muốn hữu kiện. Điều kiện là con người không đặt ngăn trở, cũng không chống cự. Trong giả thuyết đó, Thiên Chúa sẽ đưa công việc Người đã bắt đầu đến chỗ hoàn chỉnh, vì "Thiên Chúa không bỏ rơi ai, nếu Người không bị từ bỏ trước", (Người sẽ hoàn tất công việc Người đã bắt đầu nếu người ta không cản trở ân sủng của Người).
2. Nhiều khi việc chuẩn bị xa không thành đạt là một sự kiện được kinh nghiệm kiểm chứng rõ ràng. Sự kiện không phải vì Thiên Chúa không muốn hoàn chỉnh hay kết thúc công việc của mình ; mà chỉ vì sự khuyết điểm, sự ngăn cản hay chống cự của con người, như là nguyên nhân thứ nhất và duy nhất.
Nếu Thiên Chúa đình chỉ công việc hay rút ân sủng của Người lại, thì điều đó chỉ xảy ra sau khi phàm nhân đã đặt ngăn trở.
3. Nếu, với ý muốn tuyệt đối và chung quyết, Thiên Chúa muốn phàm nhân mà Người huy động, đạt được ân sủng, thì chắn chắn là người ấy sẽ đạt được ân sủng một cách hiệu nghiệm (không sai). Vì ý muốn chung quyết của Thiên Chúa luôn luôn thành tựu cách hiệu nghiệm. Thiên Chúa muốn với ý muốn tuyệt đối và hiệu nghiệm, khi Người hoạt động với sự quan phòng riêng biệt hay với ơn tiền định.

Tiết II.- Tương quan giữa các ơn hiện tại (actuale)
Việc tham gia của nhiều ơn hiện tại nhằm mục đích phát sinh cũng một hành vi, hoặc nhiều hành vi.
I. Để phát sinh ra cũng một hành vi. Trong việc phát sinh cũng một hành vi luôn luôn có sự tham gia của ơn vừa đủ (sufficiens) và ơn hiệu nghiệm (efficax). Vậy giữa ơn vừa đủ và ơn hiệu nghiệm có tương quan gì không ? khi ban ơn vừa đủ, Thiên Chúa có ban ơn hiệu nghiệm nữa không ? Vốn có sự tương quan giữa ơn vừa đủ và ơn hiệu nghiệm. Khi ban ơn vừa đủ để hoạt động thì Thiên Chúa cũng dự tính ban ơn hiệu nghiệm để có thể thực hiện; và nếu con người không cản trở, thì sẽ nhận được ơn hiệu nghiệm. Do đó khuyết điểm hoặc ngăn trở về phía tạo vật có thể cắt đứt mối tương quan giữa ơn vừa đủ và ơn hiệu nghiệm.
II. Để phát sinh nhiều hành vi khác nhau. Có thể đặt hai câu hỏi : a) khi ban ơn hiệu nghiệm cho hành vi thứ nhất, Thiên Chúa có luôn luôn ban ơn vừa đủ cho hành vi trực tiếp theo sau không ?
b) khi ban ơn hiệu nghiệm cho hành vi thứ nhất, Thiên Chúa có luôn luôn ban ơn hiệu nghiệm cho hành vi trực tiếp theo sau không ?
A. Đối với câu hỏi thứ nhất chúng ta phải trả lời khẳng định. Chẳng vậy con người không thể thực hiện hành vi sau.
B. Đối với câu hỏi thứ hai, ta phải trả lời : Về phía Thiên Chúa, không bao giờ Người từ chối ơn hiệu nghiệm để thực hiện hành vi tiếp theo sau ; nhưng có thể thiếu là do lỗi của phàm nhân, nếu họ chống cự hay đặt ngăn trở cho ơn vừa đủ nối kết giữa những phù trợ hiệu nghiệm. Vì trong hành vi thứ nhất, Thiên Chúa đã ban ơn phù trợ hữu hiệu. Vì trong hành vi thứ nhất Thiên Chúa đã ban ơn phù trợ vừa đủ, trong đó, Người cũng ban sự phù trợ hữu hiệu.

Chương IV
VỀ SỰ HOÀN THIỆN HƠN KÉM CỦA ÂN SỦNG
Sự hoàn thiện hơn kém của một tập quán có thể phát xuất :
1/ Do đối tượng hay mục đích của tập quán, vì lẽ tập quán này hướng đến mục đích cao cả trọng vọng hơn của tập quán kia.
2/ Do chủ thể, vì chủ thể này có tập quán hoàn bị hơn chủ thể kia.
Lạc thuyết.- Thuyết Bán Pelagiô công nhận ân sủng có cấp bậc, nhưng cấp bậc đó chỉ hệ tại các vật thụ tạo mà thôi. Sự trung thành của thụ tạo hơn kém nhau nên làm cho ân sủng hơn kém khác nhau.
Người Tin Lành chấp nhận cấp bậc thông dự ân sủng khác nhau; và họ cho rằng ân sủng nơi người sống và nơi các thánh hoàn toàn giống nhau. Họ chủ trương như thế vì họ cho rằng sự công chính nơi người lành (dưới thế) chỉ hệ tại việc gán sự công chính của Chúa Giêsu cho họ.
Hệ luận.- 1. Ơn thường tại không thể hoàn bị hơn kém về phía đối tượng vì ân sủng là sự thông dự bản tính Thiên Chúa, là một bản tính đơn thuần và duy nhất. Nên ân sủng luôn luôn là một và duy nhất về loại nơi mọi người.
2. Ơn hiện tại có thể khác nhau về cường độ và hoàn thiện, tùy theo ý muốn của Thiên Chúa. Như lời Thánh Phaolô : "Nhưng chính Thánh Linh duy nhất ấy làm ra tất cả những điều ấy, và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý Người" (1Cr 12,1).
Cường độ mạnh yếu của ơn hiện tại thứ nhất lệ thuộc cách đặc biệt vào ý muốn hoàn toàn tự do của Thiên Chúa.
Trong những ơn hiện tại nối tiếp ơn thứ nhất thì cường độ có thể tùy thuộc cách đặc biệt vào Thiên Chúa ; hoặc có thể cả vào Thiên Chúa và cả vào thụ tạo. Tùy thuộc cách đặc biệt vào Thiên Chúa khi người tác động thụ tạo bằng ơn hiệu nghiệm hữu hiệu
Tùy thuộc cả vào Thiên Chúa cả vào thụ tạo, khi ơn hiệu nghiệm ban một cách có thể bị cản trở do khuyết điểm hay do thiếu hưởng ứng của thụ tạo, mà cường độ hành vi đã khởi sự bị thuyên giảm.
Nỗ lực của tạo vật không thể có cường độ mạnh hơn ơn hiện tại đã phát sinh ra hành vi ; thụ tạo cũng không thể làm cho việc tác động của Thiên Chúa thêm cường độ, vì tạo vật luôn luôn là chủ căn thụ biến (causa causata, movens motum).
Luận đề XXIII (XCIII) : Ơn thường tại của các lữ khách : A. khác nhau nơi từng người. B. có thể và thường thường là hoàn thiện khác nhau nơi những chủ thể lĩnh nhận ơn ấy. C. lại nơi cũng một cá nhân có thể có cường độ và hoàn thiện khác nhau.
Chứng minh.- A. Khác nhau nơi từng người
Đạo lý của Giáo hội dạy : "Mỗi người chúng ta nhận lĩnh vào mình sự công chính của mình".
Ơn thường tại, vì là mô thể nội tại và gắn liền với chủ thể, tất nhiên phải bội tăng nơi các chủ thể đón nhận ơn ấy. Đó là luật chung về sự tăng số những phụ thể.
B. Có thể và thường là hoàn thiện khác nhau.
1. Thánh Kinh. Trong Tin mừng ta thấy có người dược nhận năm nén, người thì hai nén, người khác nữa chỉ có một nén tùy khả năng riêng của mỗi người. (Mt. 25,15)
2. Đạo lý của Giáo hội. CĐC Trident. dạy : mỗi người nhận được ân sủng theo định mức của Thánh Linh và tùy theo sự chuẩn bị và cộng tác của mỗi người.
3. Lẽ thần học. Mô thể đưọc phú ban tương đương với sự chuẩn bị trước. Nếu sự chuẩn bị có cường độ như nhau, thì các chủ thể được thông dự mô thể cũng một cường độ như nhau.
C. Nơi cũng một cá nhân có thể có cường độ hoàn thiện khác nhau.
Nhờ các việc lành ân sủng có thể tăng trưởng và phát triển trong cũng một chủ thể. CĐC Trident. đã ấn định điều đó.
Hệ luận I.- Hai nguyên nhân làm cho ân sủng hoàn thiện khác nhau là Thiên Chúa và tự do ý chí của thụ tạo ; nhưng Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất, còn thụ tạo là nguyên nhân đệ nhị và là nguyên nhân gần.
Công đồng Trident. đã dạy điều đó khi ấn định rằng : "Mỗi người nhận đưọc ân sủng tùy theo định mức của Thánh Thần, là Đấng phân phát cho mỗi người theo ý định của Người , theo sự chuẩn bị và cộng tác của mỗi người.
Hệ luận II.- Ân sủng hoàn chỉnh trong vinh quang, hay nói cách khác, vinh quang của phúc nhân : A. là những đơn vị khác nhau (numerice distincta); B. vinh quang ấy được hoàn thiện và có cường độ khác nhau tùy công phúc của phúc nhân đã lập khi còn tại thế ; C. nhưng nơi mỗi phúc nhân thì luôn luôn y nguyên, không thể tăng thêm.
Công phúc là do đức mến, vì đức mến càng cường độ thì công phúc càng lớn và vinh quang càng cao.


Đoạn V
NHỮNG CÔNG HIỆU CỦA ÂN SỦNG

Ơn thường tại (tức ơn nghĩa thánh) gồm có ơn hoạt động và ơn cộng tác, vì thế có hai công hiệu : công hiệu của ơn hoạt động là công chính hóa ; công hiệu của ơn cộng tác là lập công (hay công trạng).

Chương I
Sự công chính hóa tội nhân
Công chính hóa là việc phức tạp gồm nhiều yếu tố. Chúng ta sẽ tìm hiểu từng yếu tố riêng và toàn bộ những yếu tố kết thành sự công chính hóa.

Tiết I. Bản chất của sự công chính hóa
I. Những ý nghĩa của sự công chính hóa :
1. Theo từ nguyên, chữ "justificatio" (công chính hóa) là do chữ "justitia" có nghĩa là lẽ công bình, sự ngay thẳng đúng đắn của trật tự. Theo một nghĩa riêng "justitia = đức công bình" là một nhân đức luân lý và nền tảng. Nhân đức nầy làm cho ta nhận thấy lẽ phải trong sự công bình với người khác (tư nhân, tập thể, xã hội, pháp lý).
2. Theo nghĩa bóng, sự công chính hóa chỉ sự ngay thẳng nội tâm của con người biết xử trí đúng đắn với bản thân, với tha nhân, với Thiên Chúa.
3. Công chính hóa có thể hiểu nghĩa chủ động (activa) để chỉ hành vi của Thiên Chúa công chính hóa tội nhân ; có thể hiểu nghĩa thụ động (passiva) để chỉ công hiệu của tác động thần linh (operatio divina) biến đổi phàm nhân thành chính nhân.
II. Chủ trương của Thệ phản. Để đối đầu với giáo phái Thệ phản cần biết rõ mấy chủ trương của họ như sau :
1. Thệ phản đồng hóa tội lỗi với dục vọng, nên họ cho rằng nhờ sự công chính hóa, tội lỗi không thực sự được tẩy xóa, hay tha thứ, mà chỉ được Thiên Chúa phủ lấp, giấu kín, không qui trách cho tội nhân.
2. Sự công chính hóa không được thể hiện bằng sự phú ban hay du nhập một mô thể siêu nhiên nào vào linh hồn, mà chỉ là sự gán ghép bề ngoài sự công chính của Chúa Giêsu, Đấng Cứu chuộc chúng ta.
3. Về phía chúng ta, để được công chính hóa, không cần gì hơn là giục lòng tin : vững vàng tin nhận rằng sự công chính của Chúa Kitô được áp dụng cho chúng ta; nhiên hậu trước mặt Thiên Chúa, chúng ta sẽ không bị qui trách về những tội lỗi của mình nữa. Hành vi tin tưởng chính là diều công chính hóa tội nhân.
Luận đề XXIV (CII) : Trong sự công chính hóa, tất cả và từng tội trọng thực sự được tha thứ và xóa bỏ.
Chứng minh. 1. Thánh Kinh. Trong Thánh vinh 50 có những lời : "...Lạy Thiên Chúa, xin... mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm","Tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy", "Xin ngảnh mặt, đừng nhìn bao tội lỗi và xóa bỏ hết mọi lỗi lầm" (Tv.50, 3,4,11...)
2. Đây là một chân lý đã được ấn định trong CĐC Trid. (D.S. 792/1518)
3. Lẽ thần học. Người tội lỗi ở trong tình trạng xa lìa Thiên Chúa, người công chính là người có ơn nghĩa thánh, được thông dự bản tính Thiên Chúa : hai tình trạng ấy tương phản và đối lập nhau, nên không thể phối hiệp một trật trong cùng một chủ thể, vì đó là điều phi lý. Cho nên người được công chính hóa không còn tội lỗi nữa.
Tuy xóa bỏ tất cả những gì là tội lỗi, nhưng sự công chính hóa không xóa bỏ thói hư nết xấu. Việc thực tập nhân đức có thể giúp ta dần dần lướt thắng các nết xấu ấy.

Tiết II. Những yếu tố kết thành sự công chính hóa
Từ thất sủng với Thiên Chúa đến đắc sủng, phàm nhân phải trải qua một sự biến chuyển, trong đó có sự can thiệp của Thiên Chúa và của tự do con người. Thiên Chúa ban ơn, con người thì đón nhận, cộng tác bằng những hành vi cụ thể.
Chúng ta sẽ tìm hiểu :
1. Sự cần thiết của việc ban ân sủng để tha tội ;
2. Sự cộng tác của con người trong việc công chính hóa ;
3. Những hành vi của đức tin, đức mến và của sự thống hối.

§ I. Sự cần thiết của việc ban ân sủng để tha tội
Theo Calvin, sự công chính hóa chỉ hệ tại việc tha tội, nhưng thực ra sự công chính hóa đòi hỏi sự thành thực canh tân và biến cải con người nội tâm ; sự cải biến nầy không thể thực hiện nếu Thiên Chúa không ban ơn. Hơn nữa không có sự tha tội đích thực nếu không có sự thông ban ân sủng. Như thế chính sự tha tội đòi hỏi việc thông ban ân sủng.
Luận đề XXV (CIII) : Để được công chính hóa, sự tha thứ tội lỗi chưa đủ, cần phải canh tân toàn diện con người nội tâm.
Chứng minh.- 1. Thánh Kinh. "Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần trí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ cất quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính Thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòngcác ngươi. Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân chỉ các thánh quyết của Ta và đêm ra thực hành"(Ez. 36,26-27).
Trong Tân ước thánh Phaolô đã nhấn mạnh vào sự canh tân toàn diện con người nội tâm. Người kitô hữu đã chết với Chúa Kitô, đã được mai táng với Người để đuợc cùng Người phục sinh trong đời sống mới (Rm. 6,1-13) ; "Vì thế anh em hãy cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa đảo, anh em hãy để Thần linh đổi mới tâm trí anh em, và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện"(Ep. 4,22-24; 5,1-18); "...Vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi, và anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa" (Cl. 3,9-10).
2. Đạo lý của Giáo hội. CĐC. Trid. đã dạy rằng : công chính hóa "không phải chỉ tha tội, mà còn thánh hóa và canh tân con người nội tâm, do việc tự ý lĩnh nhận ân sủng và các ân huệ, nhờ đó con người bất chính trở thành công chính..."
3. Lẽ thần học. Nhờ sự công chính hóa, con người được thanh tẩy mọi tội lỗi, còn được tham dự bản tính thần linh, được làm dưỡng tử Thiên Chúa, làm đền thờ Chúa Thánh Thần, được thừa kế phúc hằng sống. Thánh Kinh mô tả chính nhân như thế. Nhưng hiển nhiên là chính nhân không thể đạt được tất cả những thể thức thần linh ấy do sự tha tội mà thôi, mà còn phải công nhận nơi chính nhân một nguyên lý tích cực nào khác nữa, là lý do cho những hồng ân cao trọng như thế.
Đàng khác việc công chính hóa cũng có cấp bậc cường độ. Mà việc tha tội không thể có cấp bậc, vì mọi tội đều được tha. Cho nên việc công chính hóa không hệ tại chỉ nguyên việc tha tội.
Luận đề XXVI (CIV) : Việc thực sự ban ân sủng cần thiết để tha tội cũng như để canh tân và thánh hóa con người.
Chứng minh.- 1. Thánh Kinh. 1o) Ngôn sứ Ezechiel nói về thần trí mới (xem chứng minh Luận đề XXV).
Tân ước dạy điều nầy nhiều cách như thánh Phaolô viết : "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho chúng ta : đó là Người đã ban thần trí của Người cho chúng ta"(1Ga. 4,13); "Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả (những người công chính) chúng ta đã nhận hết ơn nầy đến ơn khác" (Ga. 1,16); "Cũng như cành nho tự mình không thể sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế..." (Ga. 15,4 ; 1Cr. 12,12-31)
2o) Vã lại sự công chính hóa được Thánh Kinh mô tả như sự tái sinh (Rm. 6,4-11; Cl. 3,3 ; Tit. 3,4-6 ; Ga. 1,13; 3,6; 1Ga. 2,29...) như sự canh tân (2Cr. 4,16; Ep. 4,23; Cl. 3,14; Tit. 3,5); như vật thụ tạo mới (2Cr. 5,17; EP. 2,10; Gl. 6,15)
3o) Còn ơn nghĩa thánh (ân sủng công chính hóa) lúc thì được quan niệm như sự sống siêu nhiên và thần linh (Ga. 3,16-17 ; 5,22-24 ;10,10...), lúc thì như mầm sống của Thiên Chúa (1Ga. 3,9); khi thì như ấn tín Thần linh (2Cr. 1,22; Ep. 1,13) khi thì như bảo chứng Chúa Thánh Thần (2Cr.5,5...), hay như dầu xức của Thiên Chúa. (2Cr. 1,21; 1Ga. 2,27)
Tất cả những kiểu nói ấy ám chỉ một điều thiết thực và tích cực được đặt vào linh hồn ta.
2. Đạo lý của Giáo hội. CĐC Trid. đã ấn định :
1o) Xem chứng minh luận đề XXV.
2o) Căn nguyên mô thể duy nhất của sự công chính hóa là sự công chính của Thiên Chúa ... làm cho chúng ta trở nên công chính ..., được gọi là công chính và thực sự là như thế.
3o)Trong sự công chính hóa, những công phúc của sự thương khó Chúa Giêsu Kitô được áp dụng cho chúng ta. Trong sự công chính hóa, cùng với việc tha tội, con người, nhờ Chúa Giêsu Kitô, được lĩnh nhận ba nhân đức phú bẩm : tin, cậy, mến.
4o) CĐC đã ra án tuyệt thông cho những ai cho rằng con người được công chính hóa không do sự công chính của Chúa Giêsu, hay cho rằng chính sự công chính của Chúa Giêsu là mô thể làm cho ta nên công chính. (Si quis dixerit, homines sine Christi justitia, per quam nobis meruit, justificari, aut per eam ipsam formaliter justos esse : a.s. (D.S. 820/1560).
5o) Sự công chính hóa thể hiện : - không bằng nguyên việc gán sự công chính của Chúa Kitô cho ta, - không bằng nguyên việc tha tội, - cũng không bằng nguyên sự biệt đại ngoại tại (favore extrinseco) của Thiên Chúa, mà không có ân sủng và đức mến được phú vào lòng người được công chính hóa, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
3. Lẽ thần học. ( Xét về phía Thiên Chúa, Đấng công chính hóa tội nhân).
Việc Thiên Chúa tha thứ cho kẻ xúc phạm đến Người ngầm hiểu lòng lân tuất và yêu thương của Người đối với kẻ ấy. Phần chúng ta, chúng ta chỉ có thể cảm nhận được lòng tốt và yêu thương của mình đối với người khác, khi chúng ta có hảo ý sẵn lòng tha thứ cho kẻ xúc phạm đến ta. Nhưng ý muốn của Thiên Chúa thì hiệu nghiệm và phát sinh nơi con người điều thiện mà Người muốn và yêu thích. Cho nên hảo ý của Thiên Chúa đối với tội nhân phát sinh nơi người ấy ân sủng làm cho người ấy đắc sủng trước mắt Chúa. Do đó không thể có sự tha tội mà không có phú ban ân sủng.
(Về phía Chúa Giêsu). Chúa Giêsu, Đấng Cứu chuộc chúng ta, nhờ công phúc của cuộc tử nạn, đã vãn hồi cho chúng ta mọi điều thiện thiêng liêng chúng ta đã mất nơi Adam, nguyên tổ chúng ta. Nhưng nơi Adam đã có sự công chính siêu nhiên nội tại và bám chắc (justitia interna et inhoerens) vào linh hồn. Cho nên chúng ta, những người được công chính hóa, có sự công chính nội tại và keo sơn mà ta đã lĩnh nhận khi hội nhập vào Chúa Giêsu.
(Xét về công chính hóa riêng của chúng ta). Đặc trưng của sự công chính hóa của chúng ta là có cường độ hoàn thiện khác nhau nơi nhiều người, và nơi cũng một người. (Xem luận đề XXIII). Vậy nếu sự công chính hóa chỉ hệ tại việc tha tội mà thôi, hay chỉ hệ tại việc gán công nghiệp của Chúa Kitô, thì chúng ta không thể giải thích sự khác nhau về cường độ và hoàn thiện. Cho nên không thể có sự tha tội mà không ban ân sủng.
(Xét phía những công hiệu cốt yếu của sự công chính hóa) Người được công chính hóa, do hiệu năng của sự công chính hóa, được thông dự bản tính Thiên Chúa, nên dưỡng tử của Thiên Chúa, thành đền thờ của Chúa Thánh Thần, được thừa hưởng phúc trường sinh. Mà những công hiệu ấy không thể giải thích bằng nguyên việc tha tội hay bằng việc gán ghép bề ngoài sự công chính của Chúa Kitô. Cho nên phải công nhận có sự phú ban ân huệ siêu nhiên của Thiên Chúa, tức là ơn nghĩa thánh.
Hệ luận I. Để tha tội, canh tân nội tâm và thánh hóa con người, chỉ có căn nguyên đích thực là ân sủng. Bởi vì tội thường tại chỉ có thể bị đẩy lui và gạt ra ngoài một cách đích thực bởi một mô thể đối lập và tương phản. Mà chỉ có ân sủng là mô thể tương phản và đối lập với tội thường tại.
II. Ân sủng vừa tha tội vừa công chính hóa, không cần sự biệt đãi nào khác.
Khi luận phi giáo thuyết của Thệ phản, CĐC Trid. đã ấn định rằng ân sủng được ban trong phép rửa tội thì tha tất cả những gì có lý tính tội lỗi. Hơn nữa CĐ còn quả quyết căn nguyên duy nhất của sự tha tội, canh tân và thánh hóa tội nhân là ân sủng.


§ II. Sự cộng tác của con người
trong việc công chính hóa.
Đặt vấn đề. Thiên Chúa ban ân sủng xuống trong linh hồn, linh hồn phải làm gì ? Giáo phái Luther và Calvin cho rằng trong việc công chính hóa, tội nhân chỉ là dụng cụ thụ động, vô hồn.
Sự thực là tội nhân phải cộng tác bằng những hành vi tự ý. Việc cộng tác ấy là sự chuẩn bị gần và sau cùng,, thực hiện ngay lúc được công chính hóa.
Luận đề XXVII (CVII). Để được công chính hóa, con người cần có sự cộng tác tự nguyện.
Chứng minh.- Thánh Kinh. "Phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì đến với tôi" (Ga. 6,45). CĐC Trid. cũng dạy : sự công chính hóa được thể hiện do sự tình nguyện lĩnh nhận ân sủng và các ân huệ.
Câu nói thời danh của thánh Augustin : " Chúa tạo thành ta không có ta, để cứu chuộc ta phải có ta"
Thánh Tôma viện lý căn cứ vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn luôn bảo vệ tự do của con người. Vì thế khi ban ơn trong linh hồn người ta, thì đồng thời Người huy động sự tự do của kẻ được ban ơn để họ tự ý lĩnh nhận ân sủng.
Hệ luận. Việc công chính hóa các trẻ nhỏ (chưa đến tuổi khôn) và người mất trí khôn như điên dại thì không cần có sự cộüng tác của họ.

§ III. Những hành vi của đức tin, đức ái
và của sự thống hối.
Đặt vấn đề. Hoạt động của ý muốn tự do, trong lúc công chính hóa, nhằm vào hai đối tượng : Thiên Chúa và tội lỗi. Tội nhân phải lấy lòng tin tưởng sống động và yêu mến nồng nàn mà tự ý quay về với Thiên Chúa, là cứu cánh mình đã xa lìa ; đàng khác phải thành thực thống hối để tẩy chay và xa lìa tội lỗi. Sự công chính hóa quả là một việc đổi đời. Vì thế phải nói đến những hành vi cụ thể đó.
Luận đề XXVIII (CVIII).- Để được công chính hóa cần có hành vi đức tin.
Chứng minh.- 1. Thánh Kinh. "Không có đức tin không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa." (Dt. 11,6a); "Anh em hãy đi khắp thế gian, loan báo tin mừng cho mọi loài thụ tạo, ai tin và chịu phép Rửa tội thì được cứu độ..."Mc. 16,15); "Còn những điều đã chép ra ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người."(Ga. 20, 31).
2. Đạo lý của Giáo hội. CĐC Trid. đã nhiều lần nhắc lại : đức tin là điều cần thiết, không thể châm chước, để được ơn công chính hóa.
3. Lẽ thần học. Việc công chính hóa là việc linh hồn trở về với Thiên Chúa, như đối tượng của hạnh phúc và như căn nguyên của sự công chính hóa. Nhưng Thiên Chúa theo khía cạnh đó, ta chỉ có thể nhờ đức tin mới biết được. Cho nên hành vi đức tin là cần thiết cho được công chính hóa.
Luận đề XXIX (CIX).- Ngoài hành vi đức tin còn cần có hành vi đức ái.
Chứng minh.- 1. Thánh Kinh. " Quả thực trong Đức Giêsu Kitô, cắt bì hay không cắt bì, không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái" (Gl. 5,6); ".. Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích gì ? ...Đức tin không có hành động là đức tin chết...anh em thấy đó, nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ tin mà thôi..."(Gc. 2,14,17); "Vì thế tôi nói cho ông hay : tội của chị ấy rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị ấy đã yêu mến nhiều"(Lc.7,47); thánh Phaolô đã quả quyết không có đức mến thì không chi có giá trị"(1Cr. 13,1-13).
2. Đạo lý của Giáo hội. CĐC Trid. đã ấn định : nguyên đức tin không đủ để công chính hóa, con người cần phải chuẩn bị bằng những cảm tính của ý chí nữa.
3. Lẽ thần học. Tội lỗi chính là sự tự ý tẩy chay cứu cánh của mình là Thiên Chúa mà quay về với điều thiện thụ tạo. Vậy không thể thực hiện việc quay về với Thiên Chúa, nếu không tẩy chay những điều thiện thụ tạo. Việc quay về đó chỉ có thể thực hiện bằng đức ái.
Luận đề XXX (CX). Để được công chính hóa, con người cần thành thực thống hối về các tội khiên.
Chứng minh. Thánh Kinh. "Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát ; một tầm lòng tan nát dày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê"(Tv. 50,19); "Nhưng nếu kẻ gian ác từ bỏ mọi tội nó đã phạm,thì chắc chắn nó sẽ sống." (Ez. 18,21); người thu thuế cầu nguyện : "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kể tội lỗi", anh liền đưọc Chúa tha thứ (Lc. 18,134-14). Đứa con phung phá (Lc. 15,21-22). Người trộm lành thống hối (Lc. 23, 42-43). "Anh em hãy thống hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu, để được ơn tha tội. (Cv. 2,38).
2. Đạo lý của Giáo hội. Vẫn là giáo huấn của CĐC Trid.
3. Lẽ thần học. Việc công chính hóa là sự tự ý biến đổi từ tình trạng tội lỗi đến tình trạng công chính. Vậy sự biến đổi nầy hàm chứa sự từ bỏ khởi điểm (=tình trạng tội lỗi) và tiến lại đích điểm (=tình trạng ân sủng). Vì là việc tự ý nên được thể hiện bằng những tâm tình. Ý muốn tẩy chay một đối tượng bằng sự gớm ghét và tiến đến đối tượng khác bằng tâm tình yêu mến. Đó là hành vi thống hối phát xuất từ ý muốn tự do. Cho nên để được công chính hóa, cần có hành vi thống hối.
Lược tóm những căn nguyên của ân sủng
Các căn nguyên :
Cứu cánh : - vinh quang của Thiên Chúa (Ep. 1,5-6)
- vinh quang của Chúa Kitô (1Cr. 2,23)
- vinh quang của chư thánh (Rm. 6,23)
Tác thành : - thể lý : -chính = Thiên Chúa
- dụng cụ :* gắn liền : nhân tính của Chúa Giêsu
* tách rời : các bí tích
- thừa tác = linh mục
- Luân lý : Chúa Giêsu cứu chuộc
Mô thể : - ngoại = hình ảnh Con Một Thiên Chúa
- nội = thánh hóa
Chất thể : - đón nhận = yếu tính của linh hồn
- chuẩn bị = hành vi tự do thực hiện do
ảnh hưởng ân sủng

Chương II
Lập Công - Những công phúc của việc lành
Sự công chính hóa, như tác căn, phát sinh công phúc. Chương cuối của ân sủng sẽ tìm hiểu hai vấn đề :
- Thụ tạo có thể và có thực sự lập công trước mặt Thiên Chúa không ?
- Và lập công về những điều gì ?
Tiết I. Thụ tạo có thể và thực sự lập công
Khái niệm .- Công trạng là thể thức của hành vi nhân tính có suy tính và tự do. Công trạng là quyền lợi của một người đòi được lĩnh công, phần thưởng bởi người khác, vì đã làm mộüt việc có ích cho người nầy. Vì thế trong công trạng luôn có hai ngôi vị : người có công tức người lập công (me-rens) và người thhưởng công (praemiator).
Giữa công trạng và phần thưởng phải có sự tương ứng, cân bằng, sòng phẳng. Người lập công có quyền lợi hay danh nghĩa được lĩnh nhận thù lao hay phần thưởng. Người thưởng công có nghĩa vụ trả công, trao phần thưởng cho người lập công.
Phân loại.- Theo phương diện siêu nhiên, các đệ tử của thánh Tôma phân biệt công trạng như sau :
1o) Công xứng đáng (Meritum de condigno), là công có sự cân bằng (aequalitas) với phần thưởng và đáng hưởng phần thưởng đó theo lẽ công bằng (ex justitia).
Công xứng đáng được phân biệt : - xứng đáng theo lẽ công bằng nghiêm chỉnh (ex rigore justitia) ; để lập công nầy, phải có sự cân bằng thực sự hoàn hảo giữa công việc và phần thưởng, như công nghiệp Chúa Kitô ; - xứng đáng không theo lẽ công bằng nghiêm chỉnh ; người lập công chỉ hướng công việc mình đến phần thưởng nơi Đấng ban phần thưởng, như công nghiệp các thánh.
2o) Công xứng hợp (meritum de congruo), là khi thiếu sự cân bằng giữa công việc và phần thưởng. Vì thế phần thưởng đưọc ban không phải vì lẽ công bằng mà vì sự xứng hợp nào đó do lòng quãng đại nhân hậu của Chúa.
Công xứng hợp có thể làì hiệu nghiệm (infallibilis, chắc chắn có phần thưởng), khi có lời hứa ban thưởng của Chúa, nhưng là lời hứa vì sự trung tín chứ không phải vì sự xứng hợp của công trạng ; có thể không hiệu nghiệm (fallibilis, không chắc có phần thưởng), khi không có lời hứa.
Luận đề XXXI (CXIII). Sự thực hữu của công trạng là một sự kiện chắc chắn.
Chứng minh. - 1. Thánh Kinh. "Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế"(Mt. 5,13); "Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau hết tới những người vào làm trước hết" (Mt.20,8); "Kẻ trồng người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy được thù lao theo công khó nhọc của mình" (1Cr. 3,8); "Công việc xây dựng của ai tồn tại trên nền, thì người ấy được lĩnh thưởng. Còn công việc của ai bị thiêu hủy, thì người ấy sẽ bị thiệt"(Ibi. 3, 14-15); "Phàm là tay đua thì kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đạt phần thưởng chóng hư; trái lại chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát"(9,15); "Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ đợi vòng hoa dành cho người công chính"(2Tim. 4,7-8); "Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng trong cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lĩnh phần thưởng là sự sống Chúa hứa ban cho những ai yêu mến Người."(Gc. 1,12); "Bất cứ ai làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời, vì anh em sẽ nhận được phần thưởng Chúa ban là gia nghiệp dành cho dân Người" (Cl. 3,23-24); "Hãy trung thành cho đến chết, vì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiện sự sống"(Kh.2,10); "Đây, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến, và Ta đem theo lương bổng để trả cho mỗi người tùy theo việc người ấy làm"(Kh. 22,12); "Vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và... Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm"(Mt. 16,27(.
2. Đạo lý của Giáo hội.- Chân lý, đã được Thánh Kinh dạy cách minh bạch như thấy trên, cũng đã được Giáo hội trình bày và ấn định nhiều lần, như trong CĐ Orange II, CĐC Laterano IV, Firenze, nhất là CĐC Trid.
3. Lẽ Thần học.- Khi chết và vào ngày chung thẩm, Thiên Chúa sẽ phán xét và sẽ thưởng công mỗi người tùy theo việc họ đã làm. (X.Mt. 25,31-46). Sự phán xét ấy nhất thiết giả định công trạng, những việc lành của chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Cho nên sự thực hữu của công trạng là sự kiện chắc chắn.
Giải đáp vấn nạn.- Ta không nên quan niệm về sự công bình giữa con người với Thiên Chúa như giữa con người với nhau. Thực ra đôi khi Thánh Kinh cũng trình bày như thế về sự công bình giữa ta với Thiên Chúa. Sự công bình giữa ta và Thiên Chúa là công bình theo nghĩa rộng, như con cái với cha mẹ, như đầy tớ với chủ nhân. Hiển nhiên con người không thể dâng lên Thiên Chúa điều gì mà không lĩnh nhận từ Thiên Chúa trước ; và nhiên hậu đã không thuộc về Người vì nhiều danh nghĩa. Do đó Thiên Chúa không có bổn phận nào đối với con người.
Đàng khác không ai hoài nghi là, nhờ những việc lành, con người có công trạng trước mặt Thiên Chúa.
Vậy việc lành của con người đáng công trước mặt Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa đã xếp đặt, đã qui định cho con người lĩnh công và phần thưởng. Việc xếp đặt và qui định mà Thiên Chúa in vào mọi việc lành là danh nghĩa hay quyền lợi mà con người nắm để hy vọng phần thưởng; Thiên Chúa có bổn phận với chính mình chứ không phải với con người ; nói cách khác, Thiên Chúa đã hứa ban phần thưởng, và lời hứa nầy là một cái gì nội tại và gắn liền với hành vi, vì lời hứa của Thiên Chúa thì hiệu nghiệm (inffallibilis)
Lời hứa của Thiên Chúa cũng được Thánh Kinh xác nhận. "Và đây là điều mà chính Đức Kitô đã hứa ban cho chúng ta; sự sống đời đời"(1 Ga. 2,25); "Lòng đạo đức thì lợi ích mọi bề, bởi Chúa hứa ban sự sống hiện tại cũng như tương lai cho người có lòng đạo đức"(1Tm. 4,8); "Anh em đừng trở nên uể oải, nhưng hãy bắt chước những người nhờ có đức tin và lòng kiên nhẫn mà được thừa hưởng các lời hứa"(Dt. 6,12); "Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lĩnh phần thưởng là sự công chính Chúa đã ban cho những ai yêu mến Người" (Gc. 1,12).
Những điều kiện của công phúc siêu nhiên. Để một hành vi đáng công trước mặt Thiên Chúa, phải hội đủ những điều kiện sau :
1. Về phía hành vi đáng công : 1o) Phải là hành vi tích cực của ý muốn, tức việc lành phải phát xuất từ hành vi nội tại của ý muốn. Vì công phúc đòi có điều gì tích cực hướng về Thiên Chúa, hay là thực hiện để phục vụ Người.
2o) Phải là hành vi tự do. Công phúc là một thể thức của hành vi nhân linh, là một hành vi phát xuất từ ý muốn có suy tính (a voluntate deliberata).
3o) Phải là hành vi luân lý, lành mạnh và siêu nhiên. Chỉ có những việc lành mới có thể lập công đáng thưởng. Lại phải là siêu nhiên, vì phải có tương ứng giữa công trạng và phần thưởng.
2. Về phía người lập công : 1o) Phải sống trong tình trạng ân sủng. Đó là điều Giáo hội ấn định và là lẽ tự nhiên. Phần thưởng là phúc trường sinh. Ai không sống trong ân sủng là sống trong tội lỗi ; kẻ ấy đáng Thiên Chúa gớm ghét và không thể lập công trước mặt Thiên Chúa như lời Thánh Kinh :"Thôi đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa... Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu"(Is. 1,13-15 ; Am. 5, 21-23 ; Ml. 1,10).
2o) Phải còn sống trên đời. Vì khi linh hồn lìa khỏi xác cũng là lúc kết thúc thời kỳ lập công "... đã đến giờ tôi phải ra đi... Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính."(2Tm. 4, 6-8). Trong dụ ngôn về người phú hộ và ông Lazarô, Chúa Giêsu cũng nói về lúc chấm dứt thời lập công (X.Lc. 16,19-31). Thánh Phaolô cũng viết : "Tất cả chúng ta sẽ được đưa ra ánh sáng, trước tòa Đức Kitô, để mỗi người lĩnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm khi còn ở trong thân xác"(2Cr. 5,10).
Đây cũng là đạo lý của Giáo hội đã ấn định tại nhiều Công đồng như Lyon II, Firenze ; Đức Benedicto XII cũng đã dạy.
3. Về phía thành quả mà công phúc đưa tới. Phải là điều gì đưa tới phúc trường sinh.
4. Về phía Đấng thưởng công. Phải là điều Thiên Chúa hứa cho ta vì công việc ta làm.

Tiết II. Về những đối tượng của công phúc.
Ta có thể lập công để đưọc ba điều thiện : vinh quang vĩnh cửu, được ân sủng, điều thiện thế tạm (temporale). Chúng ta sẽ tìm hiểu :
I. Lập công để được phúc trường sinh ;
II. Lập công để được ân sủng.
III. Lập công để được điều thiện thế tạm (temporale)

§ I. Lập công để được phúc trường sinh
Lạc thuyết. Nhóm Pélage cho rằng, cứ sức tự nhiên, con người có thể lập công để được phúc trường sinh. M. Baius thì cho rằng công phúc không hệ tại ơn thánh hóa, mà hệ tại giữ luật Thiên Chúa. Người Thệ phản thì cho rằng, người công chính nhờ việc lành của mình không thể lập công xứng đáng (de condigno) để được phúc trường sinh.
Luận đề XXXII (CXIV). Cứ sức tự nhiên và không có ân sủng trợ giúp, con người không thể lập công để được phúc trường sinh. (De fide).
Chứng minh. 1. Thánh Kinh. "Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy anh em không thể làm gì được" (Ga. 15,4-5).
2. Đạo lý của Giáo hội. Trước hết CĐ Orange II, rồi đến CĐC Trid. đã ấn định ân sủng cần thiết tuyệt đối để lập công cho được phúc trường sinh.
3. Lẽ thần học. 1o) Phúc trường sinh là điều siêu nhiên theo cốt tính, còn hành vi nhân linh, nếu không có ân sủng, là tự nhiên thuần túy. Vậy không có tương ứng giữa siêu nhiên và tự nhiên.
2o) Hành vi nhân linh tự nhiên cũng không tự qui hướng về phúc trường sinh, vì hành vi không thể vượt quá căn nguyên hoạt động ; mà căn nguyên tự nhiên không thể hướng hành vi của mình vượt quá giới hạn tự nhiên.
3o) Ở đời nầy, con người không có ân sủng là con người ở trong tình trạng tội lỗi; hiển nhiên không thể làm gì để đáng lập công hưởng phúc trường sinh.
Luận đề XXXIII (CXV) Chính nhân có thể nhờ việc lành mà lập công xứng đáng để được phúc trường sinh.
Chứng minh. 1. Thánh Kinh. "So với hạnh phúc lớn lao họ sẽ được lĩnh nhận thì những đau khổ của họ chỉ nhẹ nhàng. Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Người."(Kn. 3,5); "Đó là dấu cho thấy Thiên Chúa xét xử công minh : anh em được coi là xứng đáng tham dự Nước Thiên Chúa, chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ"(2 Tx. 1,5); "Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm phán chí công sẽ trao phần thưởng ấy cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện"(2Tm. 4,8).
2. Đạo lý của giáo hội. Như những trích dẫn trên đây. CĐC Trid. Dùng những chữ vere promeruisse, vere mereri.
3. Lẽ Thần học. Có thể xét việc có công của con người hai cách : theo bản thể và như xuất phát từ ý muốn tự do; như phát xuất từ ân sủng của Chúa Thánh Thần.
a) Theo bản thể và như phát xuất từ ý muốn tự do thì hành vi của con người không xứng đáng với phúc trường sinh, vì sự trổi vượt của phúc nầy; nhưng có thể xứng hợp phần nào với phúc ấy, vì không gì xứng hợp cho bằng Thiên Chúa, Đấng trác tuyệt trong nhân đức, ban thưởng cho người hành động phù hợp với nhân đức của mình.
b) Xét như phát xuất từ ân sủng của Chúa Thánh Thần, thì có sự tương ứng giữa việc làm và phần thưỏng, vì con người đã được nâng lên địa vị con cái Thiên Chúa, đưọc thông dự bản tính Thiên Chúa; lại do sự huy động của Chúa Thánh Thần, việc làm được qui hướng về phúc trường sinh.
Luận đề XXXIV (CXVI). Các việc lành của chính nhân phải được đức ái chi phối và điều khiển mới có thể có công trưóc mặt Thiên Chúa.
Chứng minh. - 1. Thánh Kinh. "Phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp" (Mt.19,29); "Ai cho anh em uống một chén nước vì anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu"(Mc.9,41); "Vậy dù ăn, dù uống, hay bất cứ làm việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa."(1Cr. 10,31); "Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lĩnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người"(Gc.1,13). Tin mừng thánh Matthêô nói rõ về phần thưởng dành cho những việc từ thiện bác ái. (Mt. 25, 31-46).
2. Đạo lý của Giáo hội. Giáo hội dạy, để lập công trước mặt Thiên Chúa, chẳng những cần có ân sủng, lại cần ảnh hưởng liên tục của Chúa Giêsu; lại những việc ta lập công, phải được làm trong Thiên Chúa; hoặc nhờ ân sủng của Thiên Chúa, hay nhờ tinh thần nghĩa tử trong thâm tâm của con cái Thiên Chúa. Những kiểu nói ấy cho ta thấy ảnh hưởng của đức ái cần thiết cho việc lành ta làm có công phúc.
3. Lẽ thần học. 1o) (Vì đặc tính của công phúc). Công phúc bao hàm sự qui hướng việc làm về phần thưởng và sự tình nguyện của ý muốn. Nhưng chỉ có đức ái qui hướng hành vi của ta về cứu cánh là hưởng nhan thánh Chúa ; lại chỉ có đức ái giúp ta làm việc lành cách tình nguyện.
2o) (Vì người thưởng công) Người thưởng công chỉ ban thưởng cho những công việc được thực hiện để sinh ích cho mình hay ít là để làm rạng danh mình.

§ II. Lập công để được ân sủng
Ân sủng của Thiên Chúa có thể xét hai cách : như ân huệ nhưng không, hay như loại biệt (specifice) theo bản tính của tặng phẩm được ban nhưng không. Hiểu theo ý nghĩa thứ nhất, thì ân sủng không phải là đối tượng của công phúc. "Nhưng nếu được chọn nhờ ân sủng, thì không phải là do việc làm, chẳng vậy ân sủng không còn là ân sủng nữa"(Rm. 11,6). theo ý nghĩa thứ hai, có thể xét về việc lập công cho tha nhân hay cho bản thân; ơn cho bản thân có thể là ơn thứ nhất, để hoán cải, để phát triển đời sống siêu nhiên và để bền đỗ.
A. Lập công để được ân sủng thứ nhất.
Ơn thứ nhất này có thể là ơn hiện tại hay thường tại; và có nhiều cách thức lập công.
Luận đề XXXV (CXVII). Để được ơn hiện tại thứ nhất, không thể lấy những việc lành đi trước hay theo sau ơn ấy mà lập công A: cách xứng đáng, B: hay xứng hợp.
Chứng minh. 1. Thánh Kinh. Ơn hiện tại thứ nhất là ơn kêu gọi. "Cũng trong Người, chúng tôi được kêu gọi, được tiền định theo quyết định của Người, Đấng làm nên mọi sự theo ý muốn của mình"(Ep. 1,11).
2. Đạo lý của Giáo hội. CĐ Orange II đã ấn định rằng, không một công trạng, một chuẩn bị, không lời cầu khẩn nào đi trước ân sủng, mà ngược lại.
3. Lẽ thần học. A.(Cách xứng đáng). 1o) Những hành vi đi truớc ân sủng là những hành vi tự nhiên. Vậy không tương ứng với ân sủng của Thiên Chúa là thực tại siêu nhiên.
2o) Vả lại ở đời nầy, trước khi lĩnh ơn hiện tại thứ nhất, con người đang ở trong tình trạng tội lỗi thì không thể lập công phúc nào.
B.(Cách xứng hợp). Vì thiếu tình bằng hữu với Thiên Chúa, con người tội lỗi không thể lập công theo nghĩa chuẩn bị, vì không có sự tương ứng giữa hành vi tự nhiên với ân sủng siêu nhiên. Cũng không thể lập công theo nghĩa thỉnh cầu, vì không có ân sủng thánh hóa thì không thể có đối ứng với điều gì siêu nhiên.
Cũng không thể nhờ những việc theo sau ơn hiện tại thứ nhất. Vì những việc nầy là công hiệu của ân sủng rồi, đang khi công phúc là căn nguyên phát sinh công hiệu.
Luận đề XXXVI (CXVIII). Để được ơn thường tại thứ nhất, không thể lấy những việc lành đi trước hay theo sau ơn ấy mà lập công xứng đáng hay xứng hợp ; nhưng có thể nhờ những việc lành đi trước, thực hiện dưới ảnh hưởng của ơn khởi động, mà lập công cách xứng hợp.
Chứng minh. Có hai loại hành vi đi trước ơn thường tại thứ nhất : một là hành vi hoàn toàn tự nhiên, hai là hành vi siêu nhiên thực sự, thực hiện dưới ảnh hưởng của ơn khởi động.
1. Thánh Kinh. "Mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban nhưng không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Giêsu Kitô" (Rm. 3,23-24); "Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ : đây không phải bởi sức anh em làm, để không ai có thể hãnh diện"(Ep. 2,8); "Không phải tự sức mình, chúng ta có thể làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới"(Tt. 3,5).
2. Đạo lý của Giáo hội. CĐC Trid. dạy rằng không có hành vi nào đi trước sự công chính hóa có thể lập công để được ơn công chính hóa. Điều đó ít là phải hiểu về công phúc xứng đáng (merito de condigno).
3. Lẽ thần học. 1o.-(Về công xứng đáng). Để lập công xứng đáng phải sống trong tình trạng ơn nghĩa. Vì trước giây phút được công chính hóa, con người vẫn là tội nhân, nên không thể lập công phúc nào.
2o.- (Về những công việc theo sau). Đối tượng của công phúc luôn luôn là chỗ thành tựu và công hiệu của hành vi lập công, và không bao giờ là căn nguyên của công phúc.
(Về công phúc xứng hợp). Với sự chuẩn bị và lời cầu khẩn được thực hiện dưới ảnh hưởng của ơn hiện tại hoạt động và phù trợ, con người có thể lập công xứng hợp để lĩnh nhận ơn thánh hóa. Lời cầu nguyện khiêm nhường và tín thác là động cơ lập công, như trường hợp người thu thuế.

B. Lập công cho tha nhân được ân sủng.
Luận đề. XXXVII (CXIX). Để tha nhân được ân sủng thứ nhất, trong thực tế, người công chính : không thể lập công xứng đáng, nhưng có thể lập công xứng hợp.
Chứng minh. (Không thể lập công xứng đáng). Công xứng đáng ngầm hiểu việc Thiên Chúa qui hướng hành vi nhân linh về phần thưởng. Vậy ân sủng của người công chính chỉ được qui hướng về sự thánh hóa chính mình và chinh phục vinh quang cho chính mình thôi.
(Có thể lập công xứng hợp). Người sống trong ơn thánh có thi hành ý muốn của Thiên Chúa quả là điều xứng hợp; cũng vậy, nếu vì tình bằng hữu, Thiên Chúa làm cho người công chính toại nguyện khi cho tội nhân (mà người công chính can thiệp hộ), trở lại, cũng là điều xứng hợp. Vả lại, người công chính có thể cầu xin cho tội nhân thống hối, ăn năn.

C. Lập công để chổi dậy sau khi sa ngã
Luận đề XXXVIII (CXX). Người sa ngã không thể lập công xứng đáng hay xứng hợp để được chổi dậy; mà chỉ có thể cầu khẩn.
Chứng minh. việc Thiên Chúa dùng ân sủng để qui hướng hành vi của chúng ta về lập công đã chấm dứt, khi ta phạm tội. Mà tội lỗi làm ta mất ân sủng....
Vì tình bằng hữu với Thiên Chúa, bởi tội lỗi, cũng tan biến.
Chỉ còn có lời khẩn cầu khiêm nhu, sốt sắng xin được Chúa cho vãn hồi tình trạng ân sủng đã làm mất vào ngày nào đó.
Hệ luận. Chính nhân, kiên trì trong ân sủng, có thể lập công, cách xứng hợp, cho tha nhân được cải hóa sau khi sa ngã.

D. Lập công để tăng thêm ân sủng và đức ái
I. Những cách tăng giảm của ân sủng và đức ái.
1o. Về ân sủng. - Một tập quán có thể tăng giảm hai cách : theo trương độ và cường độ, nhưng ân sủng và đức ái chỉ có thể tăng thêm theo cường độ, chứ không thể theo trương độ, vì ngay từ đầu ân sủng đã phải bao trùm mọi đối tượng. Còn cách thức thể hiện các tập quán thủ đắc và phú bẩm thì tăng giảm khác nhau. Các tập quán thủ đắc thì được tăng thêm như các tập quán tự nhiên, các tập quán phú bẩm thì chỉ nhờ Thiên Chúa mà được tăng thêm. Để Thiên Chúa thực hiện việc tăng thêm, chúng ta cộng tác bằng lập công hay chuẩn bị.
2o. Những hành vi của đức ái, có thứ là trực phát (actus elicitus), có thứ là thụ lệnh (actus imperatus). Cả hai đều có thể cao cường hay uể oải như tập quán của chúng. Lại ân sủng và đức ái thường đi đôi với nhau.
Luận đề XXXIX (CXXI). Ân sủng và đức ái có thể tăng thêm là một sự kiện thực hữu.
Chứng minh. 1. Thánh Kinh. "Bước đường người công chính thì giống như ánh sáng rạng đông, vươn lên cho đến chính ngọ"(Cn. 4,18); "Sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn lên tới Đức Kitô vì Người là Đầu"(Ep. 4,15); "Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên"(Pl. 1,9); "Nhưng anh em hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đức Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu độ chúng ta"(2Pr. 3,18); "Người công chính cứ hành động công chính nữa đi, và người thánh thiện cứ sống thánh thiện nữa đi" (Kh. 22,11). Những dụ ngôn về các nén bạc (Mt. 25,14-30), về hạt cải (Mt. 13,31-33), về men bột (Mt. 13,33...) cũng dạy một chân lý ấy.
2. Đạo lý của Giáo hội. Vấn đề nầy đã được ấn định trong CĐC Trident.
Luận đề XL (CXXII). Do những việc lành thực hiện dưới ảnh hưởng của đức ái, trực phát hay thụ lệnh, cao cường hơn kém như tập quán của nhân đức, người công chính có thể lập công xứng đáng để tăng thêm ân sủng và đức ái.
Chứng minh. Đó là đạo lý minh bạch của Giáo hội. (Phụng vụ thánh cũng nhắc nhở ta về chân lý ấy, như Lời nguyện Chúa nhật XXX TN. :"Xin cho chúng con được thêm lòng tin cậy mến...". Đàng khác tất cả những gì trong sự huy động và qui hướng của ân sủng dều nằm trong lãnh vực của sự lập công xứng đáng. Vậy sự huy động và qui hướng của ân sủng không những nhằm vào cứu cánh (tức vinh quang), mà còn vào những thực tại trung gian là sự tăng thêm ân sủng. Cho nên chính nhân có thể lập công cách xứng đáng để tăng thêm ân sủng.

E. Lập công để được bền đỗ đến cùng
Luận đề XLI (CXXV). Có thể khẩn cầu cách khiêm nhường : A, để xin cho mình hay cho tha nhân được bền đỗ, hoặc tạm thời hoặc cho đến chết; B, nhưng không thể xin ơn bền đỗ cách hiệu nghiệm (không sai)
Chứng minh. A. CĐ Orange II dạy phải cầu nguyện cho mọi chính nhân được bền đỗ trong điều thiện để đạt tới bến cứu độ. Trong kinh Lạy cha, chúng ta cũng xin, chớ để chúng ta sa chước cám dỗ, và xin gìn giữ chúng ta khỏi mọii sự dữ.
B. Sự khẩn cầu ấy không phải là hiệu nghiệm (không sai) trong việc bền đỗ, vì một điều kiện mà việc cầu nguyện đòi hỏi để được hiệu nghiệm là kiên trì trong lời cầu nguyện. Sự kiên trì là khởi điểm chứ không phải là đích điểm hay là đối tượng mà lời cầu nguyện đạt được.
Một hệ luận quan trọng. Bền đỗ đến cùng, là một hồng ân cao cả. Vậy người ta có thể lập công để được bền đỗ đến cùng không ?
Phàm nhân, trong lúc sinh thời, không thể lập công cách xứng đáng hay xứng hợp để được bền đỗ, lâm thời hay đến cùng, trong điều thiện.
Đạo lý của Giáo hội khi nói về vinh quang, luôn luôn thêm "miễn là chết trong ân sủng". Như thế tỏ rõ không thể lập công để được chết trong ân sủng.
Thần học cho biết không thấy có mặc khải nào nói về việc Thiên Chúa qui hướng việc lành của chúng ta về sự bền đỗ.
Sự bền đỗ có thể đạt được nhờ sự phù trợ riêng biệt của Thiên Chúa. Mà sự phù trợ nầy là nguyên lý của các việc lành. Cho nên không thể lập công để lĩnh nhận.
Tiết III. Những điều thiện thế tạm
có thể là đối tượng của lập công ?
Những điều thiện thế tạm (temporale) của con người là sức khỏe, tài sản, danh dự và những gì gần như thế.
I. Đối tượng của lập công có thể là : đối tượng đơn thuần, và đối tượng theo cách nào đó (simpliciter, secundum quid), tùy theo điều thiện là đơn thuần hay điều thiện theo cách nào đó.
Điều thiện đơn thuần (hay tuyệt đối) là hạnh phúc tối hậu, và dĩ nhiên những gì dẫn tới hạnh phúc ấy; điều thiện theo cách nào đó là những điều thiện theo bản chất nó chỉ có thể hiểu một cách hạn hẹp, không phổ quát, đó là tất cả những gì không phải là hạnh phúc tối hậu.
II. Về điều thiện thế tạm có thể xét hai cách : 1o) xét như chúng có thể đưa ta đến sự thánh hóa hoặc dẫn ta đến hạnh phúc trường sinh; - 2o) xét chính bản chất và lãnh vực hạn hẹp của chúng.
Do đó : A - Những điều thiện thế tạm, xét như chúng có thể đưa ta đến sự thánh hóa và cứu độ (như sự gia tăng ân sủng, và tất cả những thứ đi sau ơn thứ nhất, giúp ta đạt phúc trường sinh), đều có thể là đối tượng đơn thuần của lập công.
B. Những điều thiện thế tạm, xét theo bản chất và lãnh vực hạn hẹp của chúng, tự chúng không giúp mang lại sự thánh hóa và phần rỗi, thì không thể là đối tượng đơn thuần của lập công. Những với sự trợ giúp nào đó, chúng mang lại sự thánh hóa và cứu rỗi con người thì có thể là đối tượng theo cách nào đó của lập công.
Trong trường hợp nầy, những hành vi tốt lành, được thực hiện dưới sự huy động của Thiên Chúa, là Đấng qui hướng chúng về một mục đích hay điều thiện nào nhất định. - Điều thiện ấy nhờ Thiên Chúa phù trợ - mang tính cách của phần thưởng đối với các hành vi trên đây, xét như được thực hiện, phối trí và hướng dẫn bởi hoạt động của Thiên Chúa.
Vậy cũng như trong lĩnh vực siêu nhiên, phúc trường sinh là phần thưởng việc lành của chính nhân, được thực hiện, phối trí và hướng dẫn bởi hoạt động siêu nhiên của ân sủng, thì tương tự như thế, trong lĩnh vực tự nhiên, những điều thiện thế tạm là phần thưởng của những hành vi đoan chính tự nhiên, được thực hiện, phối trí và hướng dẫn bởi hoạt động của Thiên Chúa.
Theo cách ấy Thiên Chúa thưởng công cho mọi việc lành, kể cả những việc lành tự nhiên. Tuy nhiên phần thưởng nầy chỉ có thể là điều thiện thế tạm. Lịch sử dân Do thái thời Cựu ước chứng tỏ là bao lâu dân giữ lề luật thì được an cư lạc nghiệp, nhưng khi dân vi phạm luật Thiên Chúa thì phải chịu nhiều tai ương.

 ============================

Phụ Trương Về Ân Sủng

MẶC KHẢI VỀ ÂN SỦNG TRONG CỰU ƯỚC
Danh từ ân sủng đã có ngay từ thời Cựu Ước, nhưng sau nầy trong Tân Ước nó còn mang ý nghĩa rộng rãi hơn. Lại nữa Tân Ước còn dùng danh từ nầy để chỉ định chế độ mới do Chúa Giêsu thiết lập, đối chiếu với chế độ cũ của lề luật Môisen : Ân sủng đối lập với Lề luật.
Rm 6,14 : "Anh em không còn ở dưới lề luật nữa, mà ở dưới ân sủng".
Ga 1,17 : "Luật đã đưọc ban bố nhờ Môisen, còn ân sủng và sự thật thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có. Như thế trước tiên và tự căn là ân huệ (donum) mà Thiên Chúa ban cho nhân loại : chính Con Một Người là Đức Giêsu Kitô".
Rm 8,32 : "Người đã không tha cho chính Con của Người, mà đã phó nộp Ngài vì chúng ta hết thảy, làm sao Người lại không ban cho chúng ta mọi thứ ân huệ khác cùng với Con của Người".
Tóm lại, ân sủng là : chính ân huệ xét như là chứng tích cụ thể của lòng ưu ái nơi Thiên Chúa.
Căn nguyên của ân huệ đó : là tâm tình quãng đại, là lòng ưu ái khoan hậu.
Hiệu quả của ân huệ nơi người lĩnh nhận : là sự sáng, là vẻ kiều diễm làm cho con người trở nên xứng đáng và đẹp lòng Thiên Chúa
Trong Cựu Ước, việc ân ban Con Thiên Chúa cho nhân loại đã được loan báo, kết ước và kỳ vọng dưới nhiều hình thức và bằng nhiều cách diễn đạt. Cựu Ước :
a) Nhấn mạnh lòng quãng đại của Yahwê.
b) Diễn tả những cách biểu hiện của lòng quãng đại trong thế giới thụ tạo.
c) Trình bày những hiệu quả kỳ diệu của hồng ân Thiên Chúa nơi con người biết đón nhận.

I. CỰU ƯỚC
A. Lòng quãng đại của Đức Yahwê
Cựu Ước trình bày Đức Yahwê tự căn bản như là Đấng có lòng quãng đại : ban phát, tha thứ, thương chiếu cố và săn sóc dân Người, đặc biệt đối với những người nghèo đói và bất hạnh. Để diễn tả thái độ nầy của Yahwê, Cựu Ước dùng những từ ngữ hoặc kiểu nói đã phân tích ở trên. Giữa rất nhiều bản văn, xin đan cử một vài ví dụ :
Tv 36,8 : Lạy Chúa, quí báu thay tình yêu của Ngài, mọi con cái loài người nấp bóng dưới cánh Ngài. Yến tiệc nhà Ngài họ được no nê, suối hoan lạc Chúa cho uống thỏa thuê.
Tv 53,4 : Tình yêu Chúa quí hơn mạng sống.
Tv 102,14 : Xót thương Sion Ngài sẽ đứng dậy vì đây là thời buổi thi ân.
Os 2,19 : Ta sẽ cưới ngươi trong niềm xót thương và lân mẫn.
Xem thêm : Tv 25,6-7 ; Tv 51,3 ; Is 54,7-8 ; Is 63,7 ; Ex 34,67.
B. Những cách biểu hiện
của lòng quãng đại trong thế giới thụ tạo
Lòng quãng đại Thiên Chúa lan tràn trên mọi xác thể (Sir 1,10), nhưng dấu chỉ đặc sắc nhất là việc tuyển chọn Israel, một sự tuyển chọn hoàn toàn nhưng không : Israel không có công nghiệp gì, không có uy thế nào, cũng không phải vì số đông hay vì hạnh kiểm cao quí nào. Chỉ có lý do độc nhất là vì "ân huệ" của Thiên Chúa hay nói cách khác đi là vì lòng trung tíntình yêu của ngài .
Dnl 7,7-9 : Nếu Yahwê đã ràng buộc mình với các ngươi, và tuyển chọn các ngươi, điều đó không phải tại các ngươi đông đảo nhất giữa các dân, ngược lại các ngươi là dân thiểu số, nhưng chính vì tình yêu dành cho các ngươi... Yahwê Thiên Chúa của ngươi là Thiên Chúa chân thật, Thiên Chúa trung tín, Người duy trì giao ước của Người đối với những ai tuân giữ và yêu mến giao ước của Người cho đến muôn thế hệ.
Biểu tượng đặc biệt của ân huệ đại lượng là hứa địa mà Thiên Chúa đã ban cho dân Người, một xứ đầy những thác suối ... có nhiều núi đồi và thung lũng được mưa trời tưới gội.
Trong tất cả những ân huệ mà Thiên Chúa ban cho dân, ân huệ quí gía nhất phải là lề luật. Người Do thái đạo đức luôn phấn khởi vì vẻ đẹp và sự phong phú của lề luật (Tv 118). Đó là điều hợp lý, vì đối với người Do Thái đạo đức, lề luật không phải là một việc có tính cách pháp lý hay một kỷ luật xã hội. Lề luật là cái giúp cho tín hữu nên giống Đức Yahwê. Tuân giữ lề luật tức là trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Lề luật giúp ta trở nên giống Người : "Hãy nên thánh vì Ta là đấng thánh".
Lòng quãng đại nhưng không của Yahwê vẫn mong được đáp ứng : Thiên Chúa trông đợi sự trao đổi, một sự thông hiệp về phía kẻ được ân hưởng
Dnl 10,12 : Và bây giờ hỡi Israel, Yahwê Thiên Chúa đòi hỏi chi ngươi, nếu chẳng là ngươi phải kính sợ Thiên Chúa ngươi, tuân theo đường lối Người, phải yêu mến và phụng sự Yahwê Thiên Chúa ngươi hết tâm hồn, và hết sức lực ngươi. (Dnl 6,6; 6,12; 11,1).

C. Những hiệu quả kỳ diệu
nơi người biết đón nhận
Phúc lành của Yahwê làm cho kẻ biết đón nhận được tràn đầy sự sống và niềm hoan lạc. Ân huệ của Thiên Chúa tạo nên một tương giao bản vị giữa con người và Thiên Chúa. Tương giao nầy vừa là tương giao phụ tử vừa là tương giao tự hiến tương tự như sự tự hiến của người vợ dành cho đức lang quân.
Tình phụ tử : Is 43,3-5 (tình yêu) : Ta là Yahwê Thiên Chúa ngươi, Đấng Thánh của Israel, cứu Chúa của ngươi. Ta ban Ai cập làm giá chuộc ngươi, Kusa và Sêba làm của lễ thay ngươi.
Vì Ta đã coi ngươi là quí báu, đáng giá và Ta đã yêu ngươi, nên Ta sẽ ban những người thế ngươi , và các dân tộc thay mạng sống ngươi. Đừng sợ vì Ta ở cùng ngươi : Ta sẽ khiến dòng dõi ngươi đến từ phương Đông và nhóm họp ngươi từ phương Tây.
Tâm tình thánh hiến : Xh 19,6. Các ngươi sẽ thành một nước tư tế, cùng một dân tộc thánh cho Ta !
Nhưng thay vì sự đáp ứng hiếu thảo và lối sống thánh thiện, dân Israel lại nổi loạn. Đó là một đề tài phổ thông : Os 4,18; Is 1,4; Jer 9,4.
Tuy nhiên Thiên Chúa giàu lòng nhân hậu sẽ biến đổi tâm địa con người, Người sẽ tẩy sạch mọi hư hỏng và thay thế trái tim chai đá của họ bằng một trái tim mới bằng máu thịt để họ có thể nhận biết Yahwê. Đó sẽ là công việc của Thần Linh Yahwê (Ez 36,27) và cũng là thần thống trị của đức công chính Yahwê (Is 45, 8-24).

II. TÂN ƯỚC
A. Cái nhìn tổng quát
1Ga 4,9 : Ân sủng của Thiên Chúa được mạc khải và được trao ban nơi Đức Giêsu Kitô.
Thiên Chúa ban cho thế gian Con Một của Người : đây là ân huệ cao quí nhất. Tân Ước dùng danh từ "charis" để diễn tả nguồn ân huệ nầy trong Thiên Chúa. Charis theo Tân Ước là lòng yêu mến, lân mẫn, trung tín và nhân hậu của Thiên Chúa. Vì theo lời cầu chúc tuyệt hảo nhất chính là ước mong tha nhân được "charis" của Thiên Chúa. (Tư tưởng nầy hầu như phảng phất trong tất cả các thư của thánh Phaolô).
Đức Giêsu Kitô : Một đàng, Mạc khải biểu lộ nội tâm thâm sâu của Thiên Chúa. Nội tâm ấy chính là tình yêu (1Ga ?,8) :"Ai không yêu mến không biết được Thiên Chúa vì Thiên Chúa là tình yêu"
Và là Ân sủng (Tt 2,11; 3,4) :"Vì ân sủng của Thiên Chúa, nguồn cứu độ cho mọi người, đã được thể hiện. Nhưng đến ngày mà lòng nhân ái của Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc chúng ta và tình yêu của Ngài đối với mọi người tỏ hiện ..."
Đàng khác, Đức Giêsu chính là ân huệ của Thiên Chúa, có nghĩa là chính Người là tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa : Người là sự yêu mến, lòng trung tín và nhân ái mà Phúc âm Nhất lãm (không dùng chữ Gratia) làm chứng. Ngài là tất cả lòng quãng đại (2Cr 8,9).
2Cr 8,9 : "Anh em biết ân đức của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Người giàu có biết chừng nào, mà lại chấp nhận nghèo khổ như anh em để làm cho anh em nên giàu sang nhờ sự khó nghèo của Người".
Ga 4,9 : "Tình yêu của Thiên Chúa, Cha chúng ta, đã được tỏ hiện như vậy là Thiên Chúa đã sai Con Một Người đến trong thế gian để chúng ta sống nhờ Người".

B. Vài khía cạnh của
mầu nhiệm ân sủng trong Tân Ước
Chúng ta sẽ nghiên cứu một vài khía cạnh của ân sủng theo Tân Ước, đặc biệt thư thánh Phaolô.
Ân sủng là một tuyển chọn của Thiên Chúa.
Ân sủng đòi hỏi con người một đáp trả và một nỗ lực tự do.
Tính cách nhưng không của ân sủng.
Ân sủng và sự công chính hóa nội tâm.

1. Ân sủng là một tuyển chọn của Thiên Chúa
Chính Thiên Chúa tuyển chọn và kêu gọi : không phải con người, mà chính Thiên Chúa khởi xướng trước tiên.
Gl 1,15 : "Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mạc khải Con của Người cho tôi.... tức khắc tôi đã sang xứ Ả rập".
Thiên Chúa mời gọi, trước tiên và trước hết, tham dự ơn cứu rỗi.
2Tm 1,9 : Người (Thiên Chúa) đã cứu độ và kêu gọi chúng ta do ơn thánh triệu của Người, không phải vì công việc chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người".
Thiên Chúa cũng mời gọi tham dự những sứ mệnh và chức vụ đặc biệt trong Giáo hội của Đức Kitô.
Gl 2,8 : Đấng đã dùng ông Phêrô hoạt động tông đồ cho những người được cắt bì, cũng đã dùng tôi hoạt động cho dân ngoại"

2. Ân sủng và sinh hoạt tự do : đáp trả của con người.
Một đàng, Kinh Thánh xác quyết rằng, ân sủng là nguồn suối không bao giời cạn của sinh hoạt kitô giáo và của sự thánh thiện. Trước khi các sứ đồ ra đi rao giảng Tin mừng, cộng đoàn đã phó thác cho họ Charis của Thiên Chúa lo liệu (Cv 14,16; 15,40). Tất cả những gì là tốt trong người kitô hữu, ngay cả những gì có vẻ cá nhân và thâm sâu nhất, cũng đều là kết quả do ân sủng tác động.
1Cr 15,10 : "Nhưng tôi có là gì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu ; trái lại tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa thúc đẩy tôi".
Đàng khác, Tân Ước cũng xác quyết một cách chắc chắn, nhưng là mặc nhiên, để mọi người biết rằng ân sủng luôn biến dạng và gây tác dụng nầy, đòi hỏi một sự đáp trả, một cọng tác tự do của con người. Con người phải biểu dương những nỗ lực của mình một cách tự do. Rất nhiều đoạn văn của Tin mừng và của thư thánh Phaolô minh chứng rõ ràng ân sủng và tự do không chống đối nhau, cũng không được đặt trên cùng một bình diện. Hơn ai hết Phaolô nhấn mạnh đến tính cách nhưng không và cần thiết của ân sủng, và cũng không ai hơn Phaolô đã làm nổi bật một sự đáp trả thiết yếu và tích cực của con người : nhờ những cố gắng trong đời sống luân lý và thần bí. Không có dấu vết của định mệnh thuyết hoặc một tất định thuyết trong học thuyết của thánh Phaolô.

3. Tính cách nhưng không của ân sủng
Ep 2,7-10 : "Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. Quả vậy chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ : đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa ; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Giêsu Kitô, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta."
Đặc tính nhưng không theo giáo huấn của thánh Phaolô là một trong những nét đặc trưng nền tảng của ân sủng thần linh. Về sau trong từ ngữ hy lạp cũng như latinh và pháp, danh từ charis, gratia, grâce, thường được xem như đồng nghĩa với gratis, gratuit (nhưng không)
Điều nầy có nghĩa là ân sủng Thiên Chúa ban cho con người không giống như đồng lương cân xứng với những cố gắng vất vả của họ, nhưng là một ân huệ thuần túy do lòng quãng đại của Thiên Chúa trao ban.
Rm 11,5-6 : "Ngày nay cũng vậy, còn sót lại một số người được tuyển chọn nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Nhưng nếu được chọn nhờ ân sủng, thì không phải là do việc làm, chẳng vậy ân sủng không còn là ân sủng nữa".
Thư gửi cho tín hữu Rôma và Galát là những thư nhấn mạnh cách đặc biệt tính cách nhưng không của ân huệ Thiên Chúa : những công việc của luật Do thái, cho dầu được tuân giữ nghiêm nhặt cũng không thể đem lại cho chúng ta những ân huệ của Thiên Chúa.
Con người lĩnh nhận ân sủng thần linh nầy nhờ đức tin, nhưng đừng quên rằng đức tin cũng là một ân huệ nhưng không.
Những chân lý nầy làm phát sinh nơi con người một thái độ khiêm nhường và biết ơn sâu xa khi đối diện với Thiên Chúa.

4. Ân sủng và sự công chính hóa
Sự công bình của Thiên Chúa "công chính hóa con người" có nghĩa :
Cl 1,13-14 : "Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái : trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được tha thứ tội lỗi".
Đây là một cuộc biến đổi thực sự và mật thiết sâu xa làm cho con người nên duyên dáng trước mặt Thiên Chúa.
Rm 6,4 : "Nhờ bí tích rửa tội, ta được mai táng làm một với Người trong sự chết của Người, để như Người được sống lại từ cõi chết nhờ vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng được sống đời sống mới".
Về sau Công đồng Trentô cũng nhấn mạnh đặc biệt quan điểm nầy của giáo lý Tân Ước.

Ân sủng và tự do :
Hoạt động thần linh và hoạt động nhân linh

Trong mọi cấp độ của hữu thể thụ tạo, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo ra các "giá trị" và sự "kiên vững". Theo viễn tượng nầy Thiên Chúa không những kính trọng sự tự lập của các nguyên nhân đệ nhị (thụ tạo), mà còn làm nên chính sự tự lập đó. Nghĩa là, theo quan điểm sáng tạo của Tôma, tất cả (nguyên nhân đệ nhị) đều thực sự có một hữu thể, một bản tính, một hiện hữu. Những hữu thể thụ tạo không phải là những dáng vẻ hiện hữu bên ngoài. Hoạt động của các "bản tính thụ tạo" không thuộc loại hành động của một con rối trong tay một đạo diễn giật giây theo ý. Thiên Chúa, Đấng sáng tạo ra tự do, không chỉ kính trọng sự tự do đó, xét là tự do, Ngài còn làm nền tảng cho chính sự tự do đó, xét là tự do thực sự. Thiên Chúa không tạo nên những dáng vẻ tự do, nhưng là tự do chính danh, thực sự, đích thực. Như vậy không thể có tranh chấp giữa quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa sáng tạo và tính tự phát thực sự của ý chí nơi hành vi tự do của thụ tạo. Hành vi chỉ hiện hữu như là tự do, bởi vì Thiên Chúa tạo nên hành vi đó tự do thực sự.
"Con người được Thiên Chúa tác động như một dụng cụ. Điều đó không chút loại trừ việc con người tự tác động chính mình do ý chí tự do. Do đó, con người lập công hay không trước mặt Thiên Chúa là nhờ hành động của mình (th. Tôma)

Giáo huấn của Công đồng Trentô về ân sủng

Công đồng Trentô, trong khóa họp thứ sáu (13-4-1547), đã bàn đến giáo thuyết về ân sủng trong Sắc lệnh về ơn công chính hóa. Ở đây không phân tích tỉ mỉ Sắc lệnh dài nầy, mà chỉ lược tóm tổng quát như sau :
Công đồng đã làm nổi bật hẳn hai ý lực căn bản của giáo lý công giáo về ân sủng. Một đàng, ơn công chính hóa không phải là một cái gì ngoại tại nhưng chính là một biến đổi tận căn con người, một sự canh tân thâm sâu và đích thực. Mối tương quan bằng hữu thần linh chính là ân sủng, không chỉ là một điều gì có tính cách luân lý hay pháp định. Đó chính là một đời sống mới. Đàng khác, Công đồng quả quyết rằng trong sự canh tân đó, con người không phải là một dụng cụ bất động và thụ động, nhưng thực sự cộng tác vào sự công chính hóa và sự thánh hóa bản thân mình.
Ơn công chính hóa (việc Chúa trao ban ân sủng) là một công trình hoàn toàn nhưng không của Thiên Chúa. Nó chính là việc vượt qua từ tình trạng con người sinh ra làm con cái của Adam thứ nhất đến tình trạng ân sủng và được làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Ân sủng nầy không hệ tại sự qui định pháp lý cũng không phải do việc tẩy xóa tội lỗi : nhưng sâu xa hơn, đây chính là tình trạng riêng biệt của từng cá nhân : ơn nghĩa tử đích thực với toàn bộ những ân sủng siêu nhiên của nó : Tin, Cậy, Mến. Ơn công chính hóa là một thực tại đính liền với linh hồn của con người được công chính hóa.
Thứ công chính của Thiên Chúa mà Người trao ban cho ta và nhờ đó ta được canh tân phần thâm sâu của tâm trí ta, là không những ta được xem là công chính mà còn là công chính thực sự .
..."Vì chưng Thiên Chúa không ghét bỏ điều gì nơi con người đã được tái sinh, bởi vì không có gì là đáng án phạt đối với những kẻ đã được mai táng thực sự với Đức Kitô trong sự chết nhờ thanh tẩy qua bí tích, vì những kẻ ấy không còn theo xác thịt, nhưng cởi bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, họ đã trở nên vô tội, vô tì vết, tinh tuyền, vô phương trách sứ, được đặt làm con chí ái của Thiên Chúa, tức trở nên thừa tự của Thiên Chúa và đồng thừa tự với Đức Kitô, đến nỗi tuyệt nhiên không gì có thể ngăn cản họ vào thiên đàng. (Decretum de peccato originali S.S. 1515 '702').
Đồng thời Công đồng xác quyết vẻ tươi đẹp và thánh thiện của con người đã được công chính hóa. Công đồng lại xác quyết một cách mạnh mẽ không kém ơn công chính đó là một hồng ân của Thiên Chúa hoàn toàn tùy thuộc vào sự công chính của Đức Giêsu. Sự công chính nầy của Đức Giêsu là nguyên nhân tác thành và mô phạm không ngừng tác động và gây nên sự công chính của người kitô hữu. Sự công chính nội tâm của người kitô hữu luôn luôn lệ thuộc vào tác động và ảnh hưởng của Đức Kitô,
.... "Thực ra dù không ai có thể được công chính trừ khi người đó được thông truyền những công nghiệp do cuộc tử nạn của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì trong việc công chính hóa của kẻ vô đạo, việc thông ban những công nghiệp đó được thực hiện là khi tình yêu của Thiên Chúa tuôn tràn nhờ Chúa Thánh Linh vào tâm hồn những kẻ được công chính hóa và sát nhập vào họ, nhờ công nghiệp cuộc tử nạn rất thánh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Vả lại sự công chính riêng tư của chúng ta không được coi như là riêng tư do tự sức chúng ta. Điều đó mọi người đều biết, cũng như không có ý chối bỏ sự công chính của Thiên Chúa. Sự công chính đó được kể là của chúng ta vì chúng ta được công chính hóa nhờ ơn nầy liên kết với ơn công chính của Thiên Chúa. Chính ơn đó là của Thiên Chúa vì nó được tuôn tràn cho chúng ta nhờ công nghiệp của Đức Kitô.....
Người kitô hữu đừng bao giờ tự tín thác, tự vinh quang ở chính mình mà không ở trong Chúa, vì lòng nhân hậu của Người đối với nhân loại thật lớn lao đến nỗi Người muốn những hồng ân của Người trở nên công nghiệp của họ. (5D.S 1547 '809').
Trong chương 16 của Sắc lệnh, Công đồng giảng dạy giáo thuyết Kinh Thánh và cũng là của thánh Augustinô về công nghiệp. Người kitô hữu, một khi đã được công chính hóa, thì thực sự lập công nghiệp. Người lập công nghĩa là người đó xứng đáng một trật được hưởng sự tăng triển ân sủng trong đời sống hiện tại, đồng thời xứng đáng lĩnh nhận đời sống vĩnh cửu. Các việc từ thiện, đặc biệt đức bác ái huynh đệ, không những là dấu chỉ của ân sủng mà còn là những nguyên nhân của sự tăng triển ân sủng nầy hướng đến sự sống vĩnh cửu. Nhưng Công đồng nhiều lần quả quyết rằng quan niệm nầy về công nghiệp không làm thiệt hại chút nào đến hoạt động toàn năng và hoàn toàn nhưng không của Thiên Chúa. Mọi sự là một hồng ân nhưng không, kể cả những nỗ lực lập công của chúng ta. Tất cả đều là hồng ân nhưng không, nhưng những ơn nhưng không của Thiên Chúa không hề triệt tiêu tự do của con người. Dù hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, hành vi thiện hảo của người kitô hữu đồng thời cũng thực sự là hoạt động của con người tự do.
Sắc lệnh về ơn công chính hóa quả thật rất phong phú về thần học cũng như về tu đức : trong đó giáo thuyết về ân sủng đã được trình bày thật quân bình và đầy đủ. Sắc lệnh đó hoàn toàn dựa trên Mặc khải Kinh Thánh (đặc biệt thánh Phaolô). Trong toàn lịch sử Giáo hội, đây là một trong những bản văn hay nhất của Quyền Giáo huấn.
Giáo huấn của Giáo hội về sự tiền định

1. Định nghĩa.- Người ta gọi tiền định là một phán quyết có tính cách vô thủy vô chung của ý muốn Thiên Chúa về việc chấp nhận các thụ tạo có lý trí vào hạnh phúc vĩnh cửu, hoặc loại trừ chúng khỏi hạnh phúc đó.
"Praedestinatio est quaedam ratio ordinis aliquorum in salutem aeternam in mente divina existens" (St Thomas I,23, 2).
Sự tiền định nơi Thiên Chúa gồm hai phương diện :
- Hoạt động trí thức (praescientia).
- Hoạt động ý chí (praedeterminatio).
2. Giáo huấn của Giáo hội : A. Thiên Chúa, do sự định đoạt có tính cách vô thủy vô chung của ý muốn Người, đã tiền định một số người được vào hạnh phúc vĩnh cửu (de fide, do giáo huấn phổ thông).
Thư gửi giáo đoàn Rôma (8,29,30) bao hàm mọi phương diện về sự tiền định như trong định nghĩa trên : praescire, praedestinare, vocare, justificare, glorificare.
B. Thiên Chúa, do sự định đoạt có tính cách vô thủy vô chung của ý muốn Người, đã tiền định một số người bị án phạt đời đời (de fide).
Về điểm nầy thường căn cứ vào Phúc âm Mt 25,41 : lời nguyền rủa những người bên trái của Đức Vua trong ngày thẩm phán ; và Rm 9,22 : Thiên Chúa kiên nhẫn chờ sẵn ngày diệt vong mới phạt những người đáng chịu cơn thịnh nộ.
Về vấn đề nầy thánh Augustinô nói : "Thiên Chúa khoan nhân, Thiên Chúa công bình, Người có thể cứu rỗi một số người mà riêng họ chẳng có một công trạng tốt lành gì, vì Người là Đấng khoan nhân ; nhưng Thiên Chúa không thể luận phạt một ai vô tội, vì Người là Đấng công bình.

3. Những đặc tính của tiền định
a) Tính bất biến : Xét như là một hoạt động trí thức và ý chí của Thiên Chúa thì sắc lệnh tiền định sẽ bất biến cũng như chính hữu thể của Thiên Chúa. Thiên Chúa biết và Người muốn một cách tất nhiên rằng có một số đã được tiền định và cũng chỉ một mình Người biết những kẻ ấy thôi. Giáo hội không dạy gì bằng cách buộc tin về số lượng (?) những kẻ được tiền định.
b) Tính vô định : Để phản đối thuyết tiền định Calvin, Công đồng Trentô đã minh định trừ sự mạc khải đặc biệt của Thiên Chúa ra thì con người không thể chắc chắn tuyệt đối rằng mình đã được tiền định hưởng vinh quang. Tuy nhiên theo các nhà thần học, cũng có những dấu hiệu khá chắc chắn về sự tiền định hưởng vinh quang : bền độ thực hiện tám mối phúc thật, siêng năng rước lễ, tình bác ái huynh đệ, tình yêu đối với Chúa Kitô và Giáo hội, sùng kính Đức Trinh Nữ.



    







MỤC LỤC
ĐOẠN I. Sự cần thiết hay thực hữu của ân sủng ......................4
Đoạn này sẽ bàn tới : Chương I. Quan niệm về ân sủng
Chương II. Những lạc thuyết về ân sủng
Chương III. Những bậc khác nhau của nhân loại trong tương
quan với ân sủng
Chương IV. Sự cần thiết của ân sủng
Tiết I. Sự cần thiết của ân sủng để hối cải tội lỗi.
Tiết II. Sự cần thiết của ân sủng để tránh tội lỗi.
Tiết III. Sự cần thiết của ân sủng để người công chính làm
lành lánh dữ
Tiết IV. Sự cần thiết của ân sủng để bền chí trong điều thiện.
Đoạn II. Về bản chất của ân sủng
Chương I. Ân sủng có đưa một thực tại thụ tạo nào
vào linh hồn chăng ?
Chương II. Ân sủng có phải là một phẩm tính không
Tiết I. Bản tính của ơn thường tại
§ 1. Yếu tính của ơn thường tại xét theo hữu thểí thụ tạo
§ 2 Yếu tính của ơn thường tại xét theo mô thể siêu nhiên.
§ I. Yếu tính của ơn hiện tại xét theo hữu thể thụ tạo.
§ I.Về yếu tính của ơn hiện tại xét theo mô thể thiêng liêng
Chương III. Ân sủng có thực sự khác với nhân đức không
Chương IV. Chủ Thể Riêng Biệt Và Trực Tiếp Của Ân Sủng
Phải Chăng Là Yếu Tính Của Linh Hồn ?
ĐOẠN III. Sự phân biệt các ân sủng
Chương I.Ân sủng được phân biệt :
Thành ơn thánh sủng và ơn đoàn sủng.
Chương II. Ơn thánh sủng được phân biệt :
Thành ơn hoạt động và ơn cộng tác.
TIẾT I : Ơn hiện tại hoạt động và cộng tác.
Tiết II. Về ơn thường tại hoạt động và cộng tác 59
Chương III. Sự tái phân của ơn đoàn sủng 60
Chhương IV. Cách phân chia thông dụng 63
§ 1. Thực hữu của ơn hiệu nghiệm 66
§ II. Những đặc trưng của ơn hiệu nghiệm 67
Đoạn IV. Nguyên nhân của ân sủng 69
Chương I. Căn nguyên tác thành của ân sủng. 69
Tiết I. Căn nguyên thể lý chính của ân sủng. 69
Tiết II. Căn nguyên luân lý chính của ân sủng. 71
Tiết III. Dụng căn của ân sủng. 71
Chương II. Về căn nguyên chuẩn bị của ân sủng. 71
Tiết I. Những thứ chuẩn bị. 71
II. Những đặc trưng của việc chuẩn bị gần (hoàn bị). 72
III. Những hành vi hợp thành việc chuẩn bị xa hay gần. 72
IV. Hai hành vi riêng biệt : Đức ái và thống hối trọn 73
Tiết II. Sự cần thiết của việc chuẩn bị để lĩnh ân sủng 74
Tiết III : Bản tính của sự chuẩn bị 76
Chương III. Về mối tương quan giữa sự chuẩn bị 77
Và sự lĩnh nhận ân sủng. 77
Tiết I. Mối tương quan giữa sự chuẩn bị và ơn thánh hóa. 77
Tiết II.- Tương quan giữa các ơn hiện tại (actuale) 79
Chương IV. Về sự hoàn thiện hơn kém của ân sủng 80
Đoạn V. Những công hiệu của ân sủng 83
Chương I. Sự công chính hóa tội nhân 83
Tiết I. Bản chất của sự công chính hóa 84
Tiết II. Những yếu tố kết thành sự công chính hóa 85
§ I. Sự cần thiết của việc ban ân sủng để tha tội 86
§ II. Sự cộng tác của con người trong việc công chính hóa. 91
§ III. Những hành vi của đức tin, đức ái 91
và của sự thống hối. 91
Chương II. Lập Công - Những công phúc của việc lành 95
Tiết I. Thụ tạo có thể và thực sự lập công 95
Tiết II. Về những đối tượng của công phúc. 100
§ I. Lập công để được phúc trường sinh 100
A. Lập công để được ân sủng thứ nhất. 104
B. Lập công cho tha nhân được ân sủng. 104
C. Lập công để chổi dậy sau khi sa ngã 106
D. Lập công để tăng thêm ân sủng và đức ái 107
E. Lập công để được bền đỗ đến cùng 109
Tiết III. Những điều thiện thế tạm có thể là đối tượng
của lập công ? 110
Phụ trương về ân sủng ............................................ ....... 112
Mặc khải về ân sủng trong Cựu Ước......................................... 112
I. Cựu Ước. A. Lòng quãng đại của Thiên Chúa .....................113
B. Những cách biểu hiện của lòng quãng đại thụ tạo..............113
C. Những hiệu quả ký diệu....................................................115
II. Tân Ước . A. Cái nhìn tổng quát.........................................116
B. Vài khía cạnh của mầu nhiệm trong ân sủng .....................117
1. Ân sủng là một tuyển chọn..............................................117
2. Ân sủng và sinh hoạt tự do..............................................118
3. Tính cách nhưng không của ân sủng ...............................119
4. Ân sủng và sự công chính hóa ........................................120
Ân sủng và tự do : Hoạt động thần linh và nhân linh ................121
Giáo huấn của Công đồng Trentô về ân sủng ...........................122
Giáo huấn của Giáo hội về sự tiền định.....................................125
1. Định nghĩa......................................................................125
2. Giáo huấn của Giáo hội ..................................................125
3. Những đặc tính củ tiền định............................................126

HẾT