Thứ Tư, 15 tháng 2, 2012


GIÁO LUẬT BÍ TÍCH HÔN PHỐI

I. Dẩn nhập :

     Trong Bộ Giáo Luật 1983, đoạn bàn về hôn nhân gồm 111 khoản ( KK. 1055-1165 ), nằm trong tiết VII, của cuốn IV, chia thành 10 chương :
     Sau những điều dẩn nhập ( KK. 1055-1062 ), gồm 8 điều khoản, trong đó nhà lập pháp lần lượt bàn đến bản chất hay giá trị nội tại của hôn nhân, đặc tính căn bản, cũng như những nguyên tắc căn bản của Giáo Luật trong lãnh vực này. Chúng ta nên ghi nhận rằng : bản chất của bí tích hôn nhân rất khác với các bí tích khác. Giáo Hội tuyên xưng rằng 7 bí tích do Chúa Giêsu thiết lập. Những người ngoài Kitô giáo không lãnh nhận các bí tích vì là những định chế đạêc thù của Kitô Giáo.  Tuy nhiên, hôn nhân là một định chế tự nhiên của nhân loại, chứ không riêng của người kitô giáo. Những người kitô lập gia đình cũng có những bổn phận giống như những đôi vợ chồng ngoài kitô giáo. Nói theo ngôn ngữ thần học, người sáng tạo hôn nhân là chính Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành. Đức Kitô không sáng lập định chế hôn nhân, nhưng Ngài khôi phục lại giá trị của nó, đã bị lu mờ bởi tội nguyên tổ, đồng thời Ngài nâng hôn nhân lên hàng bí tích, biến nó thành dụng cụ và dấu chỉ của ơn thánh.
     Trong mười chương tiếp theo, Bộ Giáo luật bàn đến những mục sau đây :
1.   Việc săn sóc mục vụ và những việc phải làm trước khi cử hành hôn phối. (KK 1063-1072)
2.   Về ngăn trở tiêu hôn nói chung (KK 1073-1082)
3.   Về ngăn trở tiêu hôn nói riêng. (KK. 1083-1094 )
4.   Sự ưng thuận kết hôn. ( KK. 1095-1107 )
5.   Thể thức cử hành hôn phối. (KK.1108-1123)
6.   Hôn phối hổn hợp. ( KK 1124-1129 )
7.   Hôn phối cử hành kín đáo. ( 1130-1133 )
8.   Những hiệu qủa của hôn nhân . (1134-1140)
9.   Sự phân ly vợ chồng. ( 1141-1155 )
10.        Sự hữu hiệu hóa hôn nhân. ( 1156-1165 )
     Qua đầu đề của những chương này, chúng ta có thể nhận thấy nhà lập pháp không những bàn đến những thủ tục cần phải tuân giữ trước khi cử hành hôn lễ, nhưng còn bàn đến những bổn phận của đôi bạn sau khi kết hôn, lẫn những biện pháp nếu chẳn may hôn nhân tan vỡ.
     Vì thời gian hạn hẹp, không thể trình bày hết 111 khoản giáo luạât liên quan đến bí tích hôn phối, cho nên hôm nay con xin phép trình bày : tổng quát về chương thứ 2 và chi tiết về chương thứ 3 nói về những ngăn trở của hôn nhân, là những vấn đề mà các cha thường gặp trong xứ đạo.
II.   Những ngăn trở hôn nhân .
     Có ba điều kiện chính để hôn nhân được cử hành hữu hiệu :
          1. Đôi bạn không mắc ngăn trở.
          2. Họ phải bày tỏ sự ưng thuận kết hôn.     
          3. Hôn lễ được cử hành theo thể thức luật định
     Ngăn trở là gì ?   
     K. 1073 định nghĩa ngăn trở, theo nghĩa rộng là những hoàn cảnh làm cho việc kết hôn bất thành hoạêc bất hợp pháp . Theo nghĩa hẹp thì tiếng ngăn trở ( impedimentum ) chỉ áp dụng vào những điều kiện luật đặt ra về phía bản thân của các đương sự, khiến cho họ không thể kết hôn cách hữu hiệu hay hợp pháp, chứ không áp dụng cho các điều kiện chi phối sự thỏa thuận hoặc thể thức cử hành hôn phối.
     Nếu ngăn trở ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của hôn phối thì gọi làngăn trở tiêu hôn (impedimentum dirimens), gọi là tiêu hôn, không phải vì tiêu diệt một hôn nhân thành sự, nhưng vì ngăn cản, không cho việc kết hôn được thực hiện cách thành sự ;  còn nếu chỉ ảnh hưởng đến sự hợp pháp, thì gọi là ngăn trở cấm chỉ ( impedimentum impediens) . Trong Bộ Giáo luật hiện hành, có 12 ngăn trở tiêu hôn nói trong chương III, và chỉ có một ngăn trở cấm chỉ nói ở điều 1124, giữa người công giáo với người kitô ngoài công giáo. Dựa trên nguồn gốc pháp lý, người ta phân biệt ngăn trở do thiên luật ( tức dựa trên luật của Chúa ) và ngăn trở do Giáo Luật ( nghĩa là do Giáo Hội đặt ra ). Sự phân biệt có này ảnh hưởng đến sự bó buộc và miễn chuẩn. Những ngăn trở do thiên luật bó buộc hết mọi người, còn các ngăn trở giáo luật chỉ bó buộc người công giáo. Về sự miễn chuẩn, thì Giáo Hội chỉ có thể chuẩn chước những ngăn trở do mình đặt ra ( ví dụ như luật độc thân của hàng giáo sĩ ), chứ không thể chuẩn chước do thiên luật được ( ví dụ luật đơn hôn và bất khả phân ly : K.1056)
     Bây giờ chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu 12 ngăn trở tiêu hôn nói riêng :
1. K. 1083  § 1. Người nam chưa đủ 16 tuổi, người nữ chưa đủ 14 tuổi, không thể kết hôn hữu hiệu.
§ 2. Hội đồng giám mục có quyền ấn định tuổi lớn hơn để kết hôn hợp pháp.
     Nhiều người đề nghị tăng số tuổi tối thiểu lên, nhưng Uûy ban soạn thảo Giáo luật nói rằng quyền kết hôn là quyền cơ bản, luật có tầm mức áp dụng phổ quát, cần lưu ý đến những vùng có tục lệ tảo hôn, hơn nữa khi đến tuổi này, đương sự đã đạt đến mức trưởng thành về sinh lý cũng như tâm lý. Tại Việt Nam HĐGM theo dân luật : luật hôn nhân và gia đình việt nam ( 29 / 12 / 1986 ) chỉ cho phép nam từ 20 tuổi và nữ từ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn ( điều 5 ). Tuy nhiên, luật địa phương chỉ ảnh hưởng đến sự hợp pháp, chứ không ảnh hưởng đến sự thành hiệu. Nếu HĐGM đã qui định tuổi cao hơn, thì để kết hôn hợp pháp, phải có phép của Đấng bản quyền sở tại.
2. K. 1084 § 1. Bất lực để giao hợp, có trước khi kết hôn và vĩnh viễn, về phía người nam hoặc về phía người nữ, dù tuyệt đối, dù tương đối, tự bản tính của nó khiến cho hôn nhân vô hiệu.
                        § 2. Nếu ngăn trở bất lực có tính cách hoài nghi, dù hoài nghi về luật hay về sự kiện, thì không nên ngăn cản hôn phối hay tuyên bố vô hiệu bao lâu còn hồ nghi.
                § 3. Sự son sẻ không ngăn cấm cũng không tiêu hủy hôn phối, đừng kể qui định của điều 1098.
     Ngăn trở tiêu hôn thứ hai là sự bất lực. Sự bất lực xảy ra khi giữa vợ chồng không thể thực hiện hành vi giao hợp được; nói khác đi, bất lực hiểu là bất khả giao hợp. (impotentia coeundi) là không thể giao hợp hoàn hảo mà tự nó thích hợp cho việc sinh con. Định nghĩa của bộ thánh vụ (01.3.1941) : “Ad copulam perfectam et ad matrimonii consummationem requiritur et sufficit ut vir, aliquo saltem modo, etsi imperfecte, vaginam penetret, atque imnediate in ea seminationem saltem partialem naturali modo peregat” (Dict . de droit canon. T.5, p 1270). Học lý cũng những án lệ đã đòi hỏi những điều kiện sau đây để thực hiện sự giao hợp :
          a. Về phía người nam, cần phải có dương vật; kế đến, dương vật có thể cương lên và đưa vào âm đạo của người nữ và tiết tinh dịch ở đó (Erectio-Penetratio – Eiaculatio).
          b. Về phiá người nữ, cần phải có âm đạo (Vagina) và có thể tiếp nhận dương vật của người nam,
     Như thế, sự bất lực xảy ra khi người nam không có dương vật, hoặc không cương lên và không thể nhập vào âm đạo được; còn về phía người nữ, thì hoặc không có âm đạo, hoặc co rút lại không thể tiếp nhận dương vật. Sự bất lực có thể bắt nguồn từ nguyên nhân thể lý (ví dụ như thiếu cơ quan sinh dục từ khi mới sinh hay do tai nạn hoặc đã cắt xén bộ phận ) nhưng cũng có thể do nguyên nhân tâm lý.
     Theo giáo luật dù là tuyệt đối hay tương đối, cũng đều làm cho hôn thú vô hiệu từ bản tính, nếu sự bất lực xảy ra trước khi kết hôn (chứ không do một tai nạn sau ngày thành hôn), và có tính cách vĩnh viễn (nghĩa là không cách nào chữa trị được). Vì ngăn trở này nằm trong bản chất của hôn nhân nên không thể miễn chuẩn.
     Triệt 2 nói rằng nếu sự bất lực không chắc chắn nhưng chỉ có tính cách hoài nghi mà thôi thì không làm cho hôn nhân vô hiệu, và do đó không nên ngăn cản kết hôn. Tốt hơn hết, là nên có giấy xác nhận của bác sĩ về khả năng sinh lý. 
     Tóm lại sự bất lực làm cho hôn nhân vô hiệu khi vợ chồng không thể giao hợp với nhau. Giáo luật gọi là bất khả giao hợp (impotemtia coeundi). Còn sự son sẻ (không thể sinh con – impotentia generandi) thì không làm cho hôn nhân vô hiệu trừ khi nào có sự lường gạt, như sẽ đề cập tới ở điều 1098 trong phần bàn về sự thõa thuận hôn nhân. 
     3. Dây hôn phối (đ. 1085)
§ 1. Người còn bị ràng buộc bởi một hôn nhân trước, cho dù chưa hoàn hợp, không thể kết hôn hữu hiệu.
§ 2. cho dù hôn phối trước vô giá trị hay bị đoạn tiêu vì bất cứ lý do nào, nhưng không thể vì thế mà được phép kết hôn lại khi chưa biết chắc chắn và hợp lệ sự vô hiệu hoặc sự đoạn tiêu của hôn phối trước.
     Ngăn trở này là hậu quả của tính cách duy nhất và bất khả phân ly của hôn nhân ( K. 1056 ). Một khi đã lập gía thú rồi, thì phải chung tình với người phối ngẩu cho đến chết. Ngoài sự chấm dứt gía thú vì lý do tự nhiên này, giáo luật còn dự trù hai trường hợp khác nữa.
          a. Khi hôn nhân bị tòa án tuyên bố vô hiẹâu, thì theo pháp lý, hai người không phải là vợ chồng thực, do đó có quyền kết hôn với người khác
          b. Trường hợp thứ hai là dây hôn nhân tuy thành hiệu, nhưng được miễn chuẩn do thẩm quyền tối cao của Giáo Hội : đó là trường hợp miễn chuẩn hôn nhân bất hoàn hợp ( K. 1142 ); hoặc vì đặc ân đức tin ( KK. 1143-1149 ). Sau khi dây hôn phối được tháo gở, thì có thể thiết lập gía thú khác.
     4. Khác biệt tôn giáo ( K. 1086 ).
  § 1. Hôn phối cũng vô hiệu giữa một người đã được rửa tội trong Giáo Hội Công Giáo hay đã được nhận vào Giáo Hội Công Giáo và chưa công khai bỏ Giáo Hội, với một người không rửa tội.
  § 2. Không được chuẩn ngăn trở này nếu chưa chu toàn những điều kiện nói đến trong các điều 1125-1126.
  § 3. Nếu vào lúc kết hôn, một bên vốn được coi là đã rửa tội hoặc có hoài nghi về việc rửa tội, thì dựa vào điều 1060, hôn phối phải được suy đoán là hữu hiệu cho đến khi nào chứng minh được cách chắc chắn là một bên đã rửa tội và một bên không được rửa tội.
Cần phân biệt hai trường hợp khác nhau :
          a. Giữa người công giáo với người chưa được rửa tội : hôn nhân giữa hai người sẽ vô hiệu vì có ngăn trở tiêu hôn.
          b. Giữa người công giáo với người được rửa tội ( nghĩa là kitô giáo ), nhưng ở ngoài Giáo Hội Công Giáo : hôn nhân giữa hai người ấy bất hợp pháp, nhưng hữu hiệu, bởi vì là ngăn trở cấm chỉ nói ở điều 1124.
5. Chức thánh ( K. 1087 )
Những người đã chịu chức thánh không thể kết hôn hữu hiệu.
     Có ba chức thánh : phó tế, linh mục, giám mục. Khi đã lãnh chức thánh thì không thể kết hôn được nữa. Một phó tế vĩnh viển, nếu có vợ, thì không thể tái gía nếu chẳng may vợ qua đời.
     Tuy nhiên xét vì đây là một ngăn trở thuộc giáo luật, nên có thể được miễn chuẩn. ( Trong trường hợp thông thường, phải xin Tòa Thánh miễn chuẩn, qua Bộ Kỷ luật Bí Tích. Trong trường hợp nguy tử, Bản quyền địa phương có thể miễn chuẩn các phó tế, nhưng không thể chuẩn cho các linh mục.
6. Khấn dòng ( K. 1088 )
     Những người tháp nhập vào một tu hội dòng bằng lời khấn công khai vĩnh viễn về đức khiết tịnh thì kết hôn bất thành.
     Tu hội dòng ( KK. 607-709 ), khác với tu hội đời ( KK. 710-730 ) và với hội dòng tông đồ ( KK. 731-746 ) ( không bị chi phối bởi điều luật này ). Lời khấn công khai và vĩnh viễn : là lời khấn được chấp nhận nhân danh Giáo Hội do Bề Trên hợp pháp ( K. 1192 § 1 ) và có gía trị cho đến chết. Ngăn trở này được áp dụng cho cả tu hội dòng thuộc quyền giáo hoàng lẫn tu hội dòng thuộc quyền giáo phận.
     Ngăn trở này thuộc luật giáo hội, có thể được miễn chuẩn.
     7. Cưỡng đoạt ( K. 1089 )
          Hôn phối sẽ vô giá trị giữa người nam với người nữ bị bắt cóc hay ít ra bị giam giữ để ép buộc kết hôn, trừ khi nào sau đó, người nữ được thả ra ở một nơi an ninh và tự do, đã tự ý lựa chọn kết hôn. Những yếu tố làm nên ngăn trở :
          a. Nếu chàng trai là nạn nhân bị bắt cóc, thì không áp dụng ngăn trở này, bởi vì nhà lập pháp chỉ dự trù việc bảo vệ người nữ. Nếu muốn về sau anh có thể xin tuyên bố hôn nhân vô hiệu vì bị cưỡng ép, thiếu tự do, là một hà tỳ của sự ưng thuận (vice de consentement) nói ở điều 1103.
          b. Nếu cô gái thông đồng với người yêu để tổ chức một cuộc bắt cóc giả, ngỏ hầu thoát ly gia đình, thì vấn đề cũng không được đặt ra, bởi vì chính cô đặt ra cuộc bắt cóc này.
          c. Nếu cô gái bị bắt cóc vì lý do chính trị hay nhằm tống tiền ông bố; thế rồi trong thời gian bị tù, cô đâm ra yêu người đã bắt cóc cô, thì vấn đề cũng không được đặt ra, xét vì nguyên nhân của cuộc bắt cóc không phải là để ép cô kết hôn.
     8. Mưu sát phối ngẫu : (đ 1090).
§ 1. Kẻ nào, với chủ ý kết hôn với một người nào đó, đã gây ra tử vong cho người phối ngẫu của người đó hay cho người phối ngẫu của mình, thì hôn phối với người đó vô hiệu.
§ 2. Cả những người đã cộng tác một cách thể lý hay luân lý để giết người phối ngẫu, cũng không thể kết hôn với nhau cách hữu hiệu.
     Hầu như bộ dân luật và hình luật đều dự trù trường hợp âm mưu giết vợ hay chồng của mình hay của tình nhân, để có thể lập gia đình với người này. Ngoài những trách nhiệm luân lý do tội ác gây ra, bộ giáo luật còn muốn ngăn cản tận gốc những trường hợp ấy, bằng cách tuyên bố vô hiệu những cuộc hôn nhân tiếp theo một cuộc mưu sát phối ngẫu. Nhà lập pháp dự trù hai hoàn cảnh dù đồng lõa hay không đồng lõa. Hoàn cảnh không đồng lõa nói ở triệt 1 : một người toan tính giết mà thôi. Hoàn cảnh đồng lõa được nói ở triệt 2 : hai người đồng lõa với nhau để giết  người phối ngẫu, cho dù họ không có ý định lấy nhau, tuy nhiên giả như sau này họ kết hôn thì hôn nhân vẫn vô hiệu.
     Đây là ngăn trở do giáo luật, nhưng trong trường hợp thông thường cần  phải xin Tòa Thánh miễn chuẩn.
     9. Thân thuộc : (đ 1091)
§ 1. Trong trực hệ, hôn phối giữa tất cả thân thuộc, dù chính thức hay tự nhiên, đều là vô hiệu.
§ 2. Trong bàng hệ, hôn phối vô hiệu cho đến hết cấp thứ tư.
§ 3. Ngăn trở về huyết tộc không phân cấp.
§ 4. Không bao giờ được phép kết hôn khi có hoài nghi đôi bên có cùng liên hệ huyết tộc trong bất cứ cấp nào của trực hệ hay trong cấp thứ hai của bàng hệ.
     Hôn nhân bị cấm trong những liên hệ huyết tộc sau đây :
          a. Hàng dọc cấm kết hôn giữa mọi cấp : ví dụ như cha với con gái, mẹ với con trai. Không bao giờ có thể miễn chuẩn ngăn trở hàng dọc, cho dù là con chính thức hay con riêng ngoại hôn. Các nhà luân lý cho rằng liên hệ hàng dọc thuộc về luật tự nhiên, nên không thể chuẩn chước được.
          b. Trong hàng ngang, tuyệt đối cấm hôn nhân giữa anh chị em với nhau, dù là đồng phụ mẫu hay là cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha (2 cấp). Ngăn trở này không thể chuẩn chước, không những về lý do luân lý mà còn về lý do y tế nữa.
     10. Hôn thuộc : (đ. 1092)
     Hôn thuộc theo trực hệ dù ở cấp bậc nào cũng tiêu hủy hôn phối.
     Hôn thuộc là dây liên hệ họ hàng do hôn nhân tạo ra. Giáo luật hiện hành đã đơn giản ngăn trở này. Hôn nhân chỉ bị cấm giữa hôn thuộc trực hệ, nghĩa là giữa người đàn ông với bà nội bà ngoại, mẹ, con cháu gái nội ngoại của vợ. Trong bàng hệ, hôn thuộc không làm thành ngăn trở hôn nhân. Ngăn trở hôn thuộc chỉ xảy ra giữa đương sự với gia đình nhà chồng hay nhà vợ, chứ không ảnh hưởng đến những phần tử khác của gia đình. Ví dụ anh Cam lấy chị Quít, thì chỉ có anh ấy mắc ngăn trở với gia đình của chị Quít thôi, chứ còn anh chị em của anh ấy không có liên hệ gì với chị ấy hết.
     Ngăn trở này có thể được miễn chuẩn.
     11. Liêm sỉ : (đ. 1093)
     Ngăn trở về liêm sỉ phát sinh từ hôn phối vô hiệu sau khi đã sống chung, hoặc tự tình công khai và hiển nhiên. Ngăn trở này tiêu hủy hôn phối trong trực hệ ở cấp thứ nhất, giữa người nam với người có liên hệ huyết tộc với người nữ hay ngược lại.
     Theo giáo luật, hôn nhân sẽ vô hiệu giữa người đàn ông với mẹ hay con gái của người đàn bà; hoặc giữa người đàn bà với cha và con trai của người đàn ông.
     12. Dưỡng hệ : (đ. 1094)
     Hôn phối vô hiệu giữa những người thân thuộc do dưỡng hệ đã được pháp luật nhìn nhận, trong trực hệ hay trong cấp thứ hai của bàng hệ.
Ngăn trở về dưỡng hệ phát sinh  do việc lập con nuôi được pháp luật nhìn nhận. Ngày nào dưỡng hệ bị đoạn tiêu thì dĩ nhiên ngăn trở cũng hết, và ở đâu pháp luật không nhìn nhận việc lập con nuôi thì ngăn trở này không được đặt ra.
     Ngăn trở về dưỡng hệ chi phối trực hệ cũng như bàng hệ :
          a. Về trực hệ : hôn nhân sẽ vô hiệu giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, cũng như ông bà cha mẹ con cháu của người con nuôi.
          b. Về bàng hệ : hôn nhân sẽ vô hiệu giữa những người con nuôi của cùng dưỡng phụ hay dưỡng mẫu (giữa anh chị em nuôi) ; hôn nhân cũng vô hiệu giữa những người con nuôi với người con ruột của người đứng nuôi.
 --------------------------------------------------------


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét