ÂN SỦNG LÀ GÌ ?
CHƯƠNG I
Ý NGHĨA CỦA ÂN SỦNG
1. Ân sủng hay ơn
nghĩa do từ latinh "gratia" dịch ra ; từ nầy có những nghĩa như sau :
a. Sự niềm nở, chiều
chuộng, hảo ý ; b. Hồng ân, sự ban tặng nhưng không ; c. Lòng biết ơn và cảm mến
vì ân huệ đã được ; d. Vẻ duyên dáng, vẻ đáng yêu, gây thiện cảm, đáng thi ân.
Giáo lý công
giáo dùng từ ân sủng hay ơn nghĩa theo ba nghĩa trên. Như vậy,
khi Thiên Chúa ban ơn cho con người là do lòng nhân hậu vô biên của Người. Vì yêu
thương, Thiên Chúa đã dựng nên con người, cho con người có mặt trong vũ trụ do
Người sáng tạo. Vì yêu thương, Thiên Chúa nâng con người lên cho sống thân mật
với Người. Bậc sống nầy gọi là bậc sống siêu nhiên, nghĩa là được tham dự vào sự
sống của Thiên Chúa Ba Ngôi : được hiểu biết Chúa, được yêu mến Chúa và được Chúa
yêu thương. Tất cả những điều đó là hồng ân Thiên Chúa ban cho con người một cách
nhưng không.
2. Vậy chúng ta
có thể định nghĩa : ân sủng là một hồng ân siêu nhiên Thiên Chúa ban cho con người
một cách nhưng không để con người nhờ ân sủng có thể đạt tới sự sống đời đời.
Là hồng ân siêu
nhiên, vì vượt trên mọi yêu sách, mọi đòi hỏi của bản tính tự nhiên ; con người
lại còn được tham dự vào bản tính Thiên Chúa là bản tính siêu việt. Hồng ân được
ban cho con người một cách nhưng không để con người đạt tới cứu cánh siêu nhiên
là hạnh phúc đời đời, tức là phúc thanh nhàn trên thiên đàng.
3. Sách Giáo lý
Hội thánh Công giáo giải thích : "Ân sủng là một ân huệ, một trợ giúp nhưng
không mà Thiên Chúa ban để chúng ta (con người) đáp lại tiếng gọi của Người :
trở thành con cái Thiên Chúa, làm nghĩa tử, tham dự vào bản tính Thiên Chúa và
vào sự sống đời đời. Ân sủng cho chúng ta tham dự vào sự sống Thiên Chúa, vào đời
sống thâm sâu của Ba Ngôi Thiên Chúa" (GLHTCG 1996, 1997). "Ơn gọi vào
sự sống vĩnh cửu là một ơn siêu nhiên, tùy thuộc hoàn toàn vào sáng kiến nhưng
không của Thiên Chúa. Ơn gọi ấy vượt mọi khả năng của trí tuệ và ý chí con người,
cũng như của mọi thụ tạo" (1998).
4. Ân sủng được
chia thành hai thứ : ơn hiện tại và ơn thường tại, cũng được gọi là hiện sủng và
thường sủng.
Ơn hiện tại là
sự trợ giúp siêu nhiên ban tạm thời, nghĩa là chỉ ban cho con người tùy lúc và
tùy hoàn cảnh, để việc làm của con người có "giá trị" trước mặt Thiên
Chúa, ta gọi là việc làm siêu linh. Chúa cũng ban hiện sủng cho con người để tiến
tới ơn thường tại.
Ơn thường tại
là ơn Chúa ban trong linh hồn một cách bền vững, nhờ đó, bản tính con người được
trợ giúp một cách riêng, tài năng linh hồn được nâng lên, con người có thể sống
và hoạt động một cách siêu linh. Các việc làm của con người đáng được Chúa thưởng
công đời sau.
Sách Giáo lý
dạy : "Ơn thánh hóa là một ân huệ thường tồn, một trạng thái siêu nhiên bền
vững, hoàn thiện linh hồn để chúng ta có thể sống với Thiên Chúa và hành động
nhờ tình yêu của Người. Chúng ta phân biệt ơn thường sủng và ơn hiện sủng. Ơn
thường sủng là trạng thái thường xuyên để sống và hành động theo tiếng gọi của
Thiên Chúa, và ơn hiện sủng là những can thiệp của Thiên Chúa lúc khởi đầu cuộc
hoán cải hoặc trong quá trình thánh hóa" (GLHTCG 2000).
– — ` – —
CHƯƠNG II
SỰ CẦN THIẾT CỦA ÂN SỦNG
5. Bản tính sa
ngã là tình trạng của con người sau tội nguyên tổ. Con người mất ân sủng và mọi
đặc ân ngoại nhiên, trở nên bất lực không thể đạt tới cứu cánh siêu nhiên. Phần
thượng, con người lìa bỏ Thiên Chúa ; phần hạ, con người cảm nhận sự phản loạn
của các đam mê.
Thiên Chúa không
nỡ để con người hư đi, đã quyết định cho Ngôi Lời nhập thể để cứu chuộc con người,
phục hồi con người trong tình trạng ân sủng và khả năng đạt tới cứu cánh siêu
nhiên. Nhờ công nghiệp của Đức Kitô (cũng gọi là ân sủng của Đức Kitô), con người
được tha thứ và được trả lại tình nghĩa với Thiên Chúa.
6. Sách Giáo lý
dạy : "Ân sủng của Đức Kitô là ân sủng nhưng không, qua đó Thiên Chúa ban
cho chúng ta sự sống của Người. Nhờ Thánh Thần, Thiên Chúa ban sự sống đó vào
linh hồn để chữa trị tội lỗi và thánh hóa chúng ta. Đó là ơn thánh hóa, hay ơn
thần hóa, nhận được trong Bí tích Thánh tẩy. Trong chúng ta, ơn nầy là căn nguyên
của công trình thánh hóa :
"Phàm ai kết hợp
với Đức Kitô đều là thụ tạo mới, cái cũ đã qua, cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy
đều do bởi Thiên Chúa, là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hòa giải với
Người" (2Cr 5,17-18). (GLHTCG 1999)
7. Như thế, sau
khi sa ngã con người cần có ân sủng mới có thể đạt tới cứu cánh siêu nhiên. Bởi
vì trước khi sa ngã, với sức tự nhiên, con người đã không thể đạt được cứu cánh
siêu nhiên, nếu không được Thiên Chúa nâng lên bậc siêu nhiên và ban ơn thánh hóa.
Để đạt tới cứu
cánh siêu nhiên, con người phải có hành động vươn tới cứu cánh, chẳng hạn, hiểu
biết Thiên Chúa để phụng sự, mến yêu. Nhưng hành động vươn tới cứu cánh siêu
nhiên là hành động quá sức tự nhiên của con người, nên cần có sự hỗ trợ của Thiên
Chúa. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ : "Nếu không có Thầy, anh em không
thể làm được gì" (Ga 15,5).
Hơn nữa,
"chuẩn bị cho con người đón nhận ân sủng cũng đã là một công trình của ân
sủng. Việc chuẩn bị nầy cần thiết để khơi dậy và nâng đỡ sự cộng tác của chúng
ta vào việc công chính hóa nhờ đức tin, vào việc thánh hóa nhờ đức mến"
(GLHTCG 2001).
§1. Tội nhân
cần ân sủng để được hoán cải
8. Để hiểu việc
hoán cải phải là như thế nào, ta phải hiểu tình trạng của tội nhân sau khi phạm
tội (tất nhiên là tội trọng). Khi phạm tội, con người từ chối Thiên Chúa là cứu
cánh siêu nhiên của mình : từ đó con người đánh mất ơn thánh hóa, các nhân đức
tin, cậy, mến, ân huệ Chúa Thánh Thần, các nhân đức luân lý như công bình, bác ái...cùng
với những sự thiện tự nhiên như việc trí khôn ra lu mờ không còn tuân phục Thiên
Chúa như trước nữa.
Như vậy,
"hoán cải" không có nghĩa là thôi không phạm tội nữa, mà phải chổi dậy
khỏi tội, phục hồi những gì đã đánh mất. Sự hoán cải còn bao hàm sự sửa chữa ba
điều dữ do tội gây ra : - vết nhơ của tội, dấu vết tội lỗi để lại trong linh hồn
; - sự thác loạn của bản tính tự nhiên ; - án phạt đời đời.
9. Để hoán cải,
phải có thống hối nội tâm. Sách Giáo lý dạy : "Như các ngôn sứ thuở
trước, lời Chúa Giêsu kêu gọi hoán cải và thống hối trước hết không nhắm đến những
việc bên ngoài, "mặc áo vải thô, rắc tro trên đầu", giữ chay và khổ
chế, nhưng đến hoán cải trong lòng, thống hối nội tâm. Nếu không có thống hối nội
tâm, các việc làm bên ngoài sẽ vô hiệu và dối trá. Tuy nhiên việc hoán cải nội
tâm thúc đẩy người ta diễn tả thái độ ấy bằng những dấu hiệu khả giác, những cử
chỉ và những việc làm của người thống hối (1430).
Thống hối nội
tâm là chuyển hướng triệt để toàn bộ đời sống, hết lòng quay lại trở về với Thiên
Chúa, đoạn tuyệt với tội lỗi, từ bỏ sự dữ, ghê tởm những hành động xấu xa đã làm.
Đồng thời thống hối nội tâm cũng bao hàm ước muốn và quyết tâm thay đổi đời sống,
với hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa và tin tưởng vào sự trợ giúp của
ân sủng. Cuộc hoán cải trong lòng nầy đi đôi với sự đau buồn có sức cứu độ mà các
Giáo phụ gọi là "tâm tình đau đớn" (annimi cruciatus), và "tâm hồn
hối hận" (compunctio cordis).(1431).
10. Ân sủng cần
thiết cho việc hoán cải.- "Lòng người nặng nề, nên phải được Thiên
Chúa ban cho một trái tim mới (Ed 36, 26-27). Hoán cải trước hết là công việc của
ân sủng, Thiên Chúa làm cho lòng chúng ta quay về với Người : "Lạy Chúa,
xin đưa chúng con về và chúng con sẽ trở lại với Chúa" (Ac 5,21). Thiên Chúa
ban cho chúng ta sức mạnh để bắt đầu lại, chính khi khám phá ra tình yêu cao cả
của Thiên Chúa mà lòng chúng ta bị chấn động vì thấy tội lỗi khủng khiếp và nặng
nề, nên không dám phạm tội vì sợ xúc phạm đến Chúa và bị tách lìa khỏi Người. Lòng
con người hoán cải khi hướng nhìn lên Đấng bị tội lỗi chúng ta đâm thâu.
Khi chiêm ngắm Máu Đức
Kitô và nhận biết rằng Máu ấy quí giá biết bao đối với Chúa Cha, vì khi đổ ra để
chuộc tội chúng ta, máu ấy ban cho toàn thế giới ơn hoán cải. (T. Clêmentê, thư
gửi giáo đoàn Corinthô, 7,4) (GLHTCG 1432).
Từ khi Đức
Kitô phục sinh, chính Chúa Thánh Thần ... ban cho lòng con người ân sủng để họ ăn
năn hoán cải" (GLHTCG 1433).
Thánh Phaolô
cũng quả quyết : "Thật vậy mọi người đã phạm tội và đã bị tước mất vinh
quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban nhưng
không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Giêsu Kitô" (Rm
3,23-24).
§2. Người công
chính cần có ân sủng để tránh tội
11. Trong kinh Lạy
Cha, Chúa Giêsu dạy ta phải xin cho khỏi sa chước cám dỗ. Cám dỗ có thể do ma
quỉ, thế gian, xác thịt. Cám dỗ cũng có thể nặng hay nhẹ. Với sức tự nhiên con
người không thể tránh phạm tội được, mà cần có ơn Chúa, như Công đồng Trentô dạy
: "Cần phải có một thứ ân sủng đặc biệt ta mới có thể tránh tội nhẹ được"
(D.833). Như thế, tội nhẹ mà còn cần phải có ân sủng, huống nữa là tội nặng hay
những cơn cám dỗ nguy hiểm. Vì vậy Giáo hội đã định tín rằng : "Nếu không
có đặc ân của ân sủng Chúa thì dẫu là người công chính cũng không thể giữ được
khả năng suốt đời không phạm tội nặng và nhất là không phạm tội nhẹ".
§3. Người công
chính cần có ân sủng
để làm lành lánh
dữ
12. Để người công
chính làm lành lánh dữ cần phải có ơn hiện sủng đặc biệt của Thiên Chúa.
a. Thánh Tôma gọi
ơn hiện sủng là sự trợ giúp của ân sủng. Sự trợ giúp nầy có hai cách : trợ giúp
cách chung và trợ giúp cách đặc biệt. Trợ giúp cách chung cần cho hết mọi bậc và
mọi hành vi của con người ; vì con người khi đã kể là công chính, thì có quyền đòi
hỏi Thiên Chúa phú cho các tài năng những tập quán tốt để hành động. Tuy nhiên
có khi các tài năng đó cần được Thiên Chúa khởi động, đây là sự trợ giúp đặc biệt
mà thánh Tôma gọi là sự can thiệp của Thiên Chúa theo ý muốn riêng của Người. Sự
trợ giúp đặc biệt nầy vốn người công chính không có quyền đòi hỏi.
13. b. Để người công
chính có thể giữ mọi giới răn tự nhiên và siêu nhiên của Thiên Chúa suốt đời
hay trong thời gian lâu dài và lướt thắng mọi chước cám dỗ nghịch với các giới
răn ấy cần có ơn hiện sủng đặc biệt của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ
: "Anh em hãy canh thức và cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn chước cám dỗ. Vì
tinh thần thì hăng hái nhưng thể xác lại yếu đuối" (Mt 26,41).
Công đồng
Orenge đã ấn định : "Nhờ ơn Thiên Chúa chúng ta mới có thể dừng bước trước
sai lầm và bất công. Phải luôn luôn xin Thiên Chúa ban ơn trợ giúp, để những người
đã được tái sinh và đã được chữa lành có thể đạt tới mục đích tốt lành, hoặc có
thể kiên trì trong việc thiện".
Công đồng
Trentô ấn định : "Ai nói rằng người công chính không cần ơn trợ giúp đặc
biệt của Thiên Chúa vẫn có thể bền vững trong tình trạng công chính hóa, hoặc nói
rằng dầu với ơn trợ giúp đặc biệt người công chính cũng không thể bền vững
trong tình trạng công chính hóa, thì bị vạ tuyệt thông" (D.S. 832/1572).
Vậy Kinh Thánh
cũng như các Công đồng đã dạy ta phải cầu nguyện kiên trì, để tránh tội và khỏi
sa chước cám dỗ. Việc cầu nguyện ngầm hiểu chỉ có ơn Chúa giúp, ta mới có thể
thắng chước cám dỗ và xa lánh tội lỗi.
˜ ™ @ ™ ˜
§4. Người công
chính cần có ân sủng để bền chí làm việc lành
14. Sự bền chí
trong việc lành có nghĩa là người công chính, dầu khó khăn, trở ngại, vẫn giữ được
tình trạng ơn nghĩa với Chúa trong cuộc sống cho đến cùng, nghĩa là được chết
trong ơn nghĩa với Chúa. Điều nầy cần đến một ân sủng rất đặc biệt. Chính Chúa
Giêsu đã nhắc nhở các môn đệ nhiều lần nhiều cách :"Vậy anh em hãy canh thức,
vì anh em không biết ngày nào, giờ nào" (Mt 25,23).
Giáo lý của
Giáo hội trong Công đồng Orenge II đã ấn định : "Những người đã được tái
sinh và được chữa lành phải luôn luôn xin ơn trợ giúp để đạt mục đích tốt lành
và kiên trì làm việc thiện".
Công đồng Trentô
gọi sự bền chí đến cùng là một hồng ân vĩ đại, chỉ một mình Thiên Chúa có thể
ban mà thôi.
CHƯƠNG III
BẢN CHẤT CỦA ÂN SỦNG
15. Ân sủng là một
hồng ân Thiên Chúa ban cho con người do lòng khoan nhân vô biên của Thiên Chúa.
Như thế, ân sủng có tính chất siêu nhiên, nên khi Thiên Chúa ban ân sủng cho
linh hồn thì linh hồn được siêu nhiên hóa, được trở nên một tạo vật mới đẹp lòng
Thiên Chúa khả dĩ đáng Chúa yêu thương.
16. Tính chất nầy
đối với ơn thường tại cũng như ơn hiện tại, ân sủng nâng linh hồn lên khỏi cấp
bậc tự nhiên để có thể hành động một cách siêu linh. Nhưng đối với ơn thường tại
thì tính chất nầy được gọi là sự công chính hóa, là ơn thánh hóa.
Công đồng
Trentô quả quyết : "Nhờ sự công chính hóa mà tội nhân trở nên con cái yêu
dấu của Thiên Chúa, được chuyển sang tình trạng ân sủng và nghĩa tử". Theo
Đức Leo XIII thì "những người công chính được Kinh Thánh và các Giáo phụ gọi
cách chính xác là được tái sinh, thụ tạo mới, thông phần bản tính Thiên Chúa, nên
con cái Thiên Chúa và được thần hóa" (Thông điệp illud).
Ơn thường tại
còn phát sinh công hiệu làm cho con người được thông phần bản tính Thiên Chúa ;
làm cho phàm nhân nên con Thiên Chúa với quyền thừa hưởng gia nghiệp của Người
; cung cấp cho người công chính đời sống thiêng liêng hoàn bị, vì ân sủng là căn
nguyên và cội rễ của mọi nhân đức ; làm cho ta được nghĩa với Thiên Chúa và đáng
hưởng sự sống đời dời.
"Ân sủng
trước tiên và chính yếu là hồng ân Thánh thần để công chính hóa và thánh hóa chúng
ta. Ân sủng còn gồm các hồng ân Chúa Thánh Thần ban để liên kết chúng ta vào công
trình của Người, ban cho chúng ta khả năng cộng tác vào công trình cứu độ tha
nhân và làm phát triển Thân thể Chúa Kitô là Hội Thánh" (GLHTCG, 2003).
17. Còn tính chất
của ơn hiện tại là một sự "chuẩn bị cho con người đón nhận ân sủng... Việc
chuẩn bị cần thiết để khơi dậy và nâng đỡ sự cộng tác của chúng ta vào việc công
chính hóa nhờ đức tin, vào việc thánh hóa nhờ đức mến" (GLHTCG, 2001).
"Thiên
Chúa tự do khởi xướng và Người muốn con người đáp trả với tất cả tự do. Khi tạo
dựng con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa không chỉ ban cho họ sự tự do mà
còn ban khả năng nhận biết và yêu mến Người. Chỉ khi tự nguyện con người mới có
thể bước vào hiệp thông. Thiên Chúa trực tiếp lay động con người" (GLHTCG,
2002).
Ơn hiện tại là
sự khởi động của Thiên Chúa vào linh hồn ta để soi sáng trí khôn và củng cố lòng
muốn của ta trong khi hành động hướng linh. Thánh Phaolô nói : "Không phải
vì tự chúng tôi, chúng tôi có khả năng để nghĩ rằng mình làm được gì, nhưng khả
năng chúng tôi là do ơn Thiên Chúa" (2Cr 3,5) ; "Vì chính Thiên Chúa
tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người"
(Pl 2,13)
Ơn hiện tại
không những là chuẩn bị cho việc đón nhận ân sủng, mà còn bảo tồn và tăng thêm ân
sủng đã lĩnh nhận. Chúa Giêsu đã xác nhận : "Thầy là cây nho, chúng con là
ngành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều
hoa trái" (Ga...).
Chúng ta có
thể hiểu ân sủng là một sức mạnh thiêng liêng Chúa ban để siêu nhiên hóa linh hồn
chúng ta, như lời Kinh Thánh : "Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới,
sẽ đặt thần trí mới vào lòng các ngươi ... Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh
chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thực hành" (Ez 36,26-27).
"Anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh
của Đấng Tạo Hóa để được thông hiểu" (Cl 3,10). "Vì thế, anh em...,
phải đổi mới trong tâm trí anh em và mặc lấy con người mới, là con người đã được
sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa, để thật sự sống công chính và thánh thiện"
(Ep 4...24). "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ
Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5).
Thánh
I-nha-xi-ô tử đạo dạy rằng : ân sủng thay đổi và cải biến chúng ta đến độ chúng
ta trở thành người mang Chúa Kitô, mang Thiên Chúa (Christiferi, Deiferi). Thánh
Grêgoriô Nyssênô cho ân sủng là họa ảnh Thiên Chúa được in vào (linh hồn) ta, ở
lại trong ta.
˜ ™ @ ˜ ™
CHƯƠNG IV
SỰ PHÂN BIỆT ÂN
SỦNG
§1. Ơn thánh
sủng và đoàn sủng
18. Ân sủng duy
chỉ có một loại, nhưng theo cách Thiên Chúa ban cho con người, và theo công hiệu
của ân sủng, chúng ta có thể phân biệt có hai thứ ân sủng : ơn thánh hóa hay thánh
sủng và ơn đoàn sủng hay đặc sủng.
Ơn thánh sủng
(gratia sanctificans) nhằm thánh hóa chính con người lĩnh nhận ; trong khi ơn đoàn
sủng (charisma) nhằm làm cho con người lĩnh nhận thánh hóa kẻ khác.
19. Như thế, người
còn mắc tội không thể có ơn thánh hóa, nhưng có thể được ban ơn đoàn sủng.
Người được ơn
thánh sủng thì mọi nhân đức và việc làm của họ có khả năng sinh hiệu quả thiêng
liêng cho chính họ và cho kẻ khác nữa.
Ơn đoàn sủng
có thể được ban cho một người hay một tập thể. Ơn đoàn sủng giúp kẻ lĩnh nhận
thực hành các việc cứu rỗi kẻ khác. Thánh Phaolô đã liệt kê các đặc sủng như
sau : sự khôn ngoan, sự thông minh, lòng tin mạnh, ơn chữa bệnh, ơn nói tiên
tri, ơn ngôn ngữ (nói tiếng lạ).
20. Sách Giáo lý
Hội thánh Công giáo giải thích : "Ngoài ra, còn có các ân sủng đặc biệt gọi
là đặc sủng, theo từ Hy lạp mà thánh Phaolô sử dụng, có nghĩa là đặc ân, quà tặng
nhưng không, ân huệ. Dù có đặc tính nào đi nữa, đôi khi là ngoại thường, như ơn
làm phép lạ, hay nói tiếng lạ, các đặc sủng cũng đều qui hướng về ơn thánh hóa
và có mục đích phục vụ lợi ích chung của Hội thánh. Các đặc sủng đều phục vụ cho
đức mến để xây dựng Hội thánh. (GLHTCG 2003).
21. Trong các đặc
sủng, phải nêu lên các ơn chức phận được ban cho người thi hành các bổn phận của
đời sống kitô hữu và các thừa tác vụ trong lòng Hội thánh :
"Chúng ta có những
đặc sủng khác nhau tùy theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Ai được ơn làm
ngôn sứ, thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Ai được ơn phục vụ, thì phải
phục vụ. Ai được ơn giảng dạy, thì hãy giảng dạy. Ai được ơn khuyên bảo, thì hãy
khuyên bảo. Ai chia cơm sẻ áo thì phải thật lòng. Ai chủ tọa thì phải có nhiệt
tâm. Ai làm việc bác ái thì hãy vui vẻ mà làm" (Rm 12,6-8).
§2. Ơn hoạt động
và ơn cộng tác
22. Đã là ân sủng
thì chỉ do một mình Thiên Chúa là Đấng ban ơn. Khi Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng
trí tuệ và khởi động ý chí con người chúng ta để chúng ta có hành vi siêu nhiên
: đó là ơn hoạt động, vì chỉ một mình Thiên Chúa hoạt động trong con người.
Sau khi được
khởi động, con người dùng ý chí tự do của mình để hành động hợp với thánh ý Thiên
Chúa ; hành động nầy tuy là của con người, nhưng đã được Thiên Chúa trợ giúp,
trường hợp nầy ân sủng Chúa ban gọi là ơn cộng tác.
Sách Giáo lý
giải thích như sau : "Thiên Chúa hoàn thành nơi ta điều Người đã khởi sự
"vì Người khởi sự bằng cách tác động thế nào để chúng ta ước muốn, và Người
hoàn thành bằng cách hợp tác với ý muốn đã được hoán cải của chúng ta"
(T.Augustinô, 17) :
"Chúng ta cũng làm
việc, nhưng chỉ cùng làm với Thiên Chúa, Đấng đang hoạt động. Thiên Chúa giàu lòng
thương xót đi bước trước để chữa lành chúng ta và một khi chúng ta được chữa lành,
Người vẫn dõi theo để chúng ta được tác sinh ; Thiên Chúa giàu lòng thương xót đi
bước trước để kêu gọi chúng ta, Người vẫn dõi theo chúng ta để chúng ta được
vinh quang ; Thiên Chúa giàu lòng thương xót đi bước trước để giúp chúng ta sống
theo lòng nhân hậu, Người vẫn dõi theo chúng ta để chúng ta sống mãi với Người
; vì không có Người, chúng ta chẳng làm được gì"(T Augustinô, 31).
§3. Ơn đầy đủ
và ơn hiệu nghiệm
23. Xét theo hiệu
quả, ân sủng còn có thể gọi là ơn đầy đủ và ơn hiệu nghiệm. Ơn đầy
đủ (gratia suffi-ciens) cho ta khả năng thể hiện những hành vi phần rỗi ; ơn hiệu
nghiệm (gratia efficax) tạo ra thực sự hành vi phần rỗi.
a. Dù loài người
sa đọa và mắc phải tội nguyên tổ, thì Thiên Chúa vẫn thực sự và thành thực muốn
mọi người được cứu rỗi. Chúa không chỉ muốn cho những người được tiền định, mà
còn cho cả mọi người được cứu rỗi.
Trong Hiến chế
Tín lý về Giáo hội "Ánh Sáng muôn dân", Công Đồng Vaticanô II đã nhắc
lại : "Người (Thiên Chúa) không bỏ rơi những ai vì liên đới với Ađam mà
đã sa ngã, nhưng luôn trợ giúp để họ đạt tới ơn cứu độ" (GS,
2).
Cũng trong Hiến
chế nầy, khi nói về Dân Thiên Chúa, Công Đồng viết : " Mọi người đều được
mời gọi vào sự hiệp nhất của Dân Thiên Chúa..., sau cùng tất cả mọi người không
trừ ai đều được ơn Thiên Chúa kêu mời lĩnh nhận phần rỗi" (GS, 13)
b. "Đối
với những ai qua những hình bóng đang tìm kiếm một Thiên Chúa mà họ không biết...
và vì Người là Đấng Cứu Độ hằng muốn cho mọi người được cứu rỗi.
...Những ai
không do lỗi của mình mà chưa đạt đến sự nhận biết minh nhiên về Thiên Chúa, nhưng
nhờ ơn Thiên Chúa, vẫn cố gắng sống đời chính trực, thì Thiên Chúa quan phòng
không từ chối ban ơn trợ giúp cần thiết để cứu độ những người ấy" (GS 16)
Vì thế, Hội
thánh đã xác quyết : Ngôi Lời đã bỏ trời xuống thế vì mọi người và vì phần rỗi chúng
ta (không trừ ai). Ý muốn phổ quát ấy chứng tỏ Chúa ban ơn đầy đủ
cho mọi người để họ được cứu rỗi.
24. 1/ Chúa muốn
cho mọi người công chính một ân sủng đủ để thực thi các giới răn Chúa (Định Tín).
Cần phân biệt
hai thứ ân sủng vừa đủ : ân sủng vừa đủ tức khắc (proxime sufficiens) là
ơn trực tiếp đem lại cho ta khả năng làm một việc phần rỗi nhất định ; và ân
sủng đủ gián tiếp để giúp ta có khả năng thể hiện một hành vi chuẩn bị cho được
ân sủng thực sự : ơn biết cầu xin là thứ ân sủng đủ gián tiếp.
Công đồng
Orenge II (D. 200) và Công đồng Trentô đã nhắc đến giáo lý trên đây. Công đồng
Trentô dạy : "Kẻ nào cho rằng người công chính dầu có được ân sủng hỗ trợ
nữa, cũng không thể thực thi các giới răn của Chúa, sẽ bị tuyệt thông"
(D.828).
Lời Chúa cũng
làm chứng cho giáo lý nầy : "Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ
trông cậy vào lòng Chúa yêu thương" (Tv 33,18).
25. 2/ Thiên Chúa
đã cho tội nhân ân sủng đủ (ít là đủ gián tiếp) để trở lại. Chúa không cất hết
hoàn toàn ân sủng, dù là tội nhân cố chấp và chai đá.
Công đồng
Latran IV (1215) đã dạy : dù là những tội nhân trọng tội "cũng có thể được
cải tạo nhờ sự sám hối chân thành" (D. 430). Giáo huấn đó giả thiết một thứ
ơn đủ để trở lại.
Lời Chúa trong
Kinh Thánh đã nhiều lần kêu gọi tội nhân sám hối : điều đó giả thiết khả năng sám
hối nhờ có ơn Chúa. "Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó trở lại
và được sống" (Ez 33,1).
3/ Chúa cho mọi
người dầu là ngoại giáo tiêu cực ơn đủ để được cứu độ. (x. 23,b)
Đức Giáo hoàng
Alexandre VIII năm 1650 đã kết án những luận đề của Jansénisme cho rằng người
ngoại giáo, người Do thái, người bè rối không nhận được thứ ân sủng nào cả. (D,
1294-1295).
Thánh Kinh đã
từng chứng tỏ Chúa muốn cho mọi người được ơn cứu độ. "Chúa không muốn cho
bất cứ ai phải hư đi, nhưng là hết thảy có phương tiện hối cải" (2Pr 3,9).
Vậy không lẽ gì Chúa lại không ban cho hối nhân ơn cần và đủ để được cứu độ.
26. 1/ Ơn hiệu
nghiệm được hiểu là ơn tạo nên hành vi thực sự. Thông thường tiếng hiệu
nghiệm có thể chỉ tính cách một năng lực, hoặc chỉ sự thực thi một công việc, có
khi chỉ kết quả của một công việc.
2/ Khi được
ban ơn, con người với ý chí tự do, cộng tác với ý muốn của Thiên Chúa, phát
sinh những hành vi siêu nhiên, thì đó là ơn hiệu nghiệm. Nói cách khác :
Với ơn hiệu nghiệm, Thiên Chúa phát sinh trong ta những hành vi siêu nhiên. Bởi
vì "Thiên Chúa hoàn thành nơi ta điều Người đã khởi sự" (GLHTCG,2001)
; "Thiên Chúa đặt trong con người khát vọng chân lý và điều thiện mà chỉ có
Người mới có thể thỏa mãn" (GLHTCG, 2002).
3/ Thánh Kinh
cũng làm chứng : "Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động
của anh em do lòng yêu thương của Người" (Pl. 2,13); "Xin Thiên Chúa
ban cho anh em mọi ơn lành để có sức thi hành thánh ý Người. xin Người thực hiện
nơi anh em điều đẹp lòng Người" (Dt 13,20-21) ; "Có nhiều hoạt động
khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người"
(1Cr 12,6).
4/ Công đồng
Orenge cũng như Trentô đều xác định rằng Thiên Chúa là căn nguyên mọi tư tưởng
lành thánh, mọi cảm tình tốt lành và mọi công trình mang ơn cứu độ, mà con người
thực hiện để sống đời đời.
5/ Một hành
vi siêu nhiên được phát sinh luôn luôn có sự tham gia của ơn vừa đủ và ơn hiệu
nghiệm, khi ban ơn vừa đủ để hành động thì Thiên Chúa cũng dự tính ban ơn hiệu
nghiệm để có thể thực hiện ; và nếu con người không cản trở, thì sẽ nhận được ơn
hiệu nghiệm.
CHƯƠNG V
CÔNG HIỆU CỦA ÂN SỦNG
27. Như ta đã biết,
ân sủng có thể là ơn hoạt động và ơn cộng tác. Hiệu qủa của ơn hoạt động là sự công
chính hóa ; hiệu quả của ơn cộng tác là lập công.
§1. Công chính
hóa.
I. Ý nghĩa của
sự công chính
1/ Nghĩa gốc
của từ "công chính" là công bình (justitia), là một nhân đức luân lý
và nền tảng. Nhân đức nầy làm cho ta thấy lẽ phải trong sự công bình với người
khác (tư nhân, tập thể, xã hội...)
2/ Theo nghĩa
bóng, "công chính" chỉ sự ngay thẳng nội tâm của con người biết xử trí
đúng đắn với bản thân, với tha nhân, với Thiên Chúa.
3/ "Công
chính hóa" có thể hiểu theo nghĩa chủ động để chỉ hành vi Thiên Chúa công
chính hóa tội nhân ; có thể hiểu theo nghĩa thụ động để chỉ công hiệu của tác động
của Thiên Chúa biến đổi tội nhân thành chính nhân.
II. Những yếu
tố kết thành sự công chính hóa
Từ tình trạng
mất nghĩa với Thiên Chúa đến tình trạng được ban ơn, tội nhân phải trải qua một
sự biến chuyển, trong đó có sự can thiệp của Thiên Chúa và của tự do con người.
Thiên Chúa ban ơn, con người đón nhận, cộng tác bằng những hành vi cụ thể.
28. Vậy để được công
chính hóa, cần phải đổi mới toàn diện con người nội tâm. Thánh Phaolô đã nhấn mạnh
về sự đổi mới nầy : "...Vì thế, anh em hãy cởi bỏ con người cũ với nếp sống
xưa, là con người phải hư nát vì bị những đam mê lừa đảo, anh em hãy để Thánh
Thần đổi mới tâm trí anh em, và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng
tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện"
(Ep 4,22-24; 5,1-18); "... Vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành
vi của nó rồi, và anh em đã mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa"
(Cl 3,9-10).
Giáo hội,
trong Công đồng Tridentinô, đã dạy : công chính hóa "không phải chỉ tha tội,
mà còn thánh hóa và còn canh tân con người nội tâm, do việc tự ý lĩnh nhận ân sủng
và các ân huệ, do đó con người bất chính trở thành công chính..."
29. Giáo lý Hội
Thánh công giáo giải thích công chính hóa như sau :
Ân sủng của
Chúa Thánh Thần có quyền năng công chính hóa chúng ta, nghĩa là thanh tẩy chúng
ta sạch tội lỗi, và được "Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ tin vào Đức
Giêsu Kitô" (Rm 3,22) và nhờ bí tích Thánh Tẩy {Tôma Aquinô 1-2; 90,4} :
Nếu chúng ta đã cùng
chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, đó niềm tin của chúng
ta. Vì biết rằng : một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ
Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết là chết
đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống là sống cho Thiên Chúa. Anh
em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho
Thiên Chúa, vì được kết hợp với Đức Giêsu Kitô" [Rm 6,8-11] (GLHTCG,
1987).
30. Công trình đầu
tiên Chúa Thánh Thần thực hiện nơi con người là sự hoán cải, nghĩa là cho họ nên
công chính như lời rao giảng của Đức Giêsu từ buổi đầu của Tin mừng : "Anh
em hãy sám hối vì triều đại Thiên Chúa đã đến gần" (Mt 4,17). Dưới tác động
của ân sủng con người quay về với Thiên Chúa và từ bỏ tội lỗi, nhờ đó được Thiên
Chúa ban ơn tha thứ và sự công chính. "Như thế, công chính hóa không chỉ là
tha tội, mà còn thánh hóa và canh tân con người nội tâm" {Trentô D. 1528}
(GLHTCG, 1989).
Ơn công chính
hóa giải thoát con người và thanh luyện tâm hồn khỏi tội lỗi nghịch với tình yêu
Thiên Chúa. Ơn công chính hóa xuất phát từ sáng kiến của Thiên Chúa giàu lòng
thương xót và hằng tha thứ. Khi được công chính hóa, con người được hòa giải với
Thiên Chúa, được giải phóng khỏi ách tội lỗi và được chữa lành. (sđd. 1990).
Ơn công chính
hóa còn là việc chúng ta đón nhận sự công chính Chúa ban cho, nhờ tin vào Đức
Giêsu Kitô. sự công chính ở đây chỉ sự công minh chính trực của tình yêu Thiên
Chúa. Cùng với ơn công chính hóa, Thiên Chúa ban cho ta đức tin, cậy, mến, và ơn
biết phục tùng thánh ý Chúa (sđd. 1991)
31. Chúng ta được
công chính hóa nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô, Đấng đã dâng mình trên Thánh Giá
làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa, và Máu Người trở nên
phương tiện đền tội cho mọi người (sđd. 1992).
Ơn công chính
hóa mở đầu cho sự cộng tác giữa ân sủng Thiên Chúa và sự tự do của con người. Về
phía con người, ơn công chính hóa được biểu lộ qua sự ưng thuận tin theo lời
Thiên Chúa mời gọi hoán cải, và qua sự cộng tác bằng đức mến vào tác động của
Chúa Thánh Thần, Đấng khởi xướng và gìn giữ sự ưng thuận đó (sđd. 1993).
Ơn công chính
hóa là công trình tuyệt hảo của tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ trong Đức Giêsu
Kitô và được Chúa Thánh Thần ban tặng (sđd. 1994).
Chúa Thánh Thần
là vị Thầy nội tâm. Ơn công chính hóa khai sinh "con người nội tâm" và
đem lại ơn thánh hóa toàn thể con người :
"Trước đây, anh
em đã dùng chi thể của anh em làm nô lệ những điều ô uế và sự vô luân, để trở
thành vô luân, thì nay, anh em cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để
trở nên thánh thiện... Giờ đây, anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà
trở thành nô lệ của Thiên Chúa, anh em thu được kết quả là được trở nên thánh
thiện, và rốt cuộc được sống đời đời"{Rm 7,22; Ep 3,16} (sđd. 1995).
§2. Lập công
hay công phúc
I.- Ý niệm về
công phúc (công trạng)
32. Cộng đoàn hay
tập thể phải "trả công" cho hành động của một thành viên : thưởng khi
có công, phạt khi có tội. Đây là đòi hỏi của đức công bình vì phù hợp với nguyên
tắc bình đẳng. Hành động đáng thưởng được gọi là "công trạng" của một
người. (GLHTCG 2006)
Theo đúng nghĩa,
con người không có công trạng gì trước mặt Thiên Chúa. Giữa Thiên Chúa và con
người có một sự chênh lệch vô tận, vì tất cả những gì chúng ta có đều nhận được
từ Đấng Sáng Tạo. (sđd. 2007).
Thế nhưng,
"vì Thiên Chúa đã tự do an bài cho con người cộng tác với ân sủng nên
trong cuộc sống, người kitô hữu có thể lập được công trạng trước mặt Thiên Chúa"
(sđd. 2008).
Như thế, lập
công là điều có thể, và chúng ta phải ra sức lập công để đáp lại ân sủng do lòng
thương yêu vô cùng của Thiên Chúa hằng kêu gọi chúng ta vào tham dự tình yêu của
Người. Kinh Thánh nói nhiều về phần thưởng Thiên Chúa dành cho những ai kính sợ
và yêu mến Người : "Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho
anh em ở trên trời thật lớn lao" (Mt 5,13) ; "...Tôi đã giữ vững niềm
tin. Giờ đây tôi chỉ đợi vòng hoa dành cho người công chính" (2Tm 4,7-8) ;
"Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng trong cơn thử thách, vì một khi đã
được tôi luyện, họ sẽ lĩnh phần thưởng sự sống Chúa hứa ban cho những ai yêu mến
Người" (Gc 1,12) ; "Vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người,...
và Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm" (Mt 16,27).
33. Điều quan
trọng.- Như chúng ta biết, con người không có công trạng gì trước mặt Thiên Chúa,
vì giữa con người và Thiên Chúa là một vực thẳm phân biệt. Do đó Thiên Chúa không
có bổn phận gì đối với con người. Sở dĩ việc lành của con người đáng công trước
mặt Chúa chính vì Thiên Chúa đã an bài, đã qui định cho con người được lĩnh công
và phần thưởng, theo lời Người đã hứa ; mà lời hứa của Thiên Chúa thì hiệu nghiệm.
Lời hứa của
Thiên Chúa cũng được Thánh Kinh xác nhận : "Và đây là điều mà chính Đức
Kitô đã hứa ban cho chúng ta : sự sống đời đời"(1Ga 2,25) ;
"...bởi Chúa hứa ban sự sống hiện tại cũng như tương lai cho người
có lòng đạo đức" (1Tm 4,8) ; "Anh em đừng trở nên uể oải, nhưng hãy bắt
chước những người nhờ có đức tin và lòng kiên nhẫn mà được thừa hưởng các lời
hứa" (Dt 6,12).
Tắt rằng, công
trạng các việc lành của chúng ta là hồng ân do lòng nhân hậu của Thiên Chúa.
"Ân sủng đã đi bước trước, giờ đây chúng ta phải đền đáp những gì đã lĩnh
nhận...Công trạng là hồng ân của Thiên Chúa"(T Augustinô)
II. Những điều
kiện của công phúc siêu nhiên.
34. Để một hành
vi đáng công trước mặt Chúa, phải có đủ những điều kiện sau :
1/ Hành vi phải
do ý muốn tự do của con người, và phát xuất bởi đức mến ; việc lành phải nhắm tôn
vinh Thiên Chúa, và mưu ích cho phần rỗi linh hồn.
2/ Người lập
công phải ở trong tình trạng ân sủng. Đó là điều Giáo hội ấn định và hợp lẽ tự
nhiên. Phần thưởng là phúc trường sinh. Ai không sống trong ân sủng là người mất
nghĩa với Thiên Chúa ; vì thế không thể lập công trước mặt Thiên Chúa như lời
Thánh Kinh : "Thôi đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa... Khi các ngươi
dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn ; các ngươi có đọc kinh cho nhiều,
Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu" (Is 1,13-15 ; Am
5,21-23 ; Ml 1,10).
3/ Người lập
công phải còn sống trên đời. Vì khi linh hồn lìa khỏi xác cũng là lúc kết thúc
thời lập công : "...đã đến giờ tôi phải ra đi... giờ đây tôi chỉ còn
đợi vòng hoa dành cho người công chính" (2Tm 4,6-8). Trong dụ ngôn về người
phú hộ và ông Lazarô, Chúa Giêsu cũng nói về lúc chấm dứt thời lập công
(x. Lc 16,19-31). Thánh Phaolô cũng viết : "Tất cả chúng ta sẽ được đưa ra
ánh sáng, trước tòa Đức Kitô, để mỗi người lĩnh nhận những gì tương xứng với các
việc tốt hay xấu khi còn ở trong thân xác" (2Cr 5,10).
35. Trên bình diện
ân sủng, không ai lập được công trạng để đáng lĩnh nhận ân sủng tiên khởi
mở đầu cho các ơn hoán cải, tha thứ và công chính hóa, vì sáng kiến là do Thiên
Chúa. Sau đó dưới tác động của Chúa Thánh Thần và đức mến, chúng ta mới có
thể lập công để đáng lĩnh nhận cho mình và cho tha nhân, những ân sủng hữu ích
cho việc thánh hóa, gia tăng ân sủng và tình yêu, cũng như đạt được đời sống vĩnh
cửu (GLHTCG 2010a).
36. Cũng như phúc
trường sinh là phần thưởng cho người công chính, những điều thiện thế trần có
thể là phần thưởng cho những hành vi đoan chính. Lịch sử dân Do thái thời Cựu Ước
chứng tỏ là bao lâu dân giữ lề luật thì được an cư lạc nghiệp, nhưng khi dân vi
phạm luật Thiên Chúa thì phải chịu nhiều tai ương.
"Theo sự
khôn ngoan của Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể lập công để đáng lĩnh nhận những
lợi ích trần thế như sức khỏe, tình bạn. Kitô hữu vẫn nguyện xin Thiên Chúa ban
cho mình các ân sủng và những lợi ích nầy. Lời cầu nguyện có thể làm Thiên Chúa
thương, ban ân sủng cần thiết giúp ta thực hành những việc đáng thưởng công"
(GLHTCG, 2010b).
"Đến muôn
đời, con cảm tạ ơn Chúa"
MỤC LỤC
CHƯƠNG I : Ý NGHĨA CỦA ÂN SỦNG *
CHƯƠNG II : SỰ
CẦN THIẾT CỦA ÂN SỦNG *
1. Tội nhân cần ân sủng
để được hoán cải *
2. Người công chính cần
có ân sủng để tránh tội *
3. Người công chính cần
có ân sủng để làm lành lánh dữ *
4. Người công chính cần
có ân sủng để bền chí làm việc
lành *
CHƯƠNG III :
BẢN CHẤT CỦA ÂN SỦNG *
CHƯƠNG IV : SỰ
PHÂN BIỆT ÂN SỦNG *
1. Ơn thánh sủng và đoàn
sủng *
2. Ơn hoạt động và ơn
cộng tác *
3. Ơn đầy đủ và ơn hiệu
nghiệm *
CHƯƠNG V : CÔNG
HIỆU CỦA ÂN SỦNG *
1. Công chính hóa. 25
I. Ý nghĩa của công
chính hóa 25
II. Những yếu tố kết
thành sự công chính hóa *
2. Lập công hay công
phúc 29
I. Ý niệm về công phúc
*
II. Những đieău
kieôn cụa cođng phúc sieđu nhieđn .............. 32
KHẢO LUẬN VỀ ÂN SỦNG
Về ân sủng,
thì tùy theo chủ trương và mục đích, các nhà thần học bàn tới trong nhiều phần
của thần học.
Một số nhà thần
học tân trào đặt vấn đề ân sủng vào phần phụ trương của khảo luận về mầu nhiệm
Nhập Thể. Nhưng không phải mọi ơn nghĩa đều do công cứu chuộc. Vả lại khi bàn về
ân sủng, phải lấy cứu cánh chứ không lấy tác căn làm yếu tố mô thể. Thực vậy, yếu
tố mô thể của ân sủíng là cất nhắc mọi hoạt động của chúng ta, để hoạt động đáng
công đạt tới hạnh phúc đời đời tức là thị kiến thanh nhàn.
Trong phần luân
lí, thánh Tôma cho ân sủng là ngoại tại của hành vi siêu nhiên, vì mặc dầu ân sủng
là thể thức phẩm định linh hồn cách nội tại, nhưng tác căn của ân sủng là Thiên
Chúa. Còn khi bàn về chính ân sủng như thiên chức phẩm định linh hồn và các tài
năng, thì ngài đã nghiên cứu theo cấu tố nội và ngoại của ân sủng. Về nội căn,
ngài bàn về thực hữu, cần thiết, bản tính và phân loại ân sủng ; về ngoại căn
thì bàn về nguyên nhân, công hiệu của ân sủng : công chính hóa, công hiệu chính
; công trạng, công hiệu thứ yếu.
ĐOẠN I
SỰ CẦN THIẾT HAY THỰC HỮU CỦA ÂN SỦNG
Đoạn này sẽ bàn
tới :
- Quan niệm về
ân sủng
- Những lạc
thuyết
- Những tình
trạng khả dĩ và khác nhau của nhân loại.
- Chính sự cần
thiết đặc thù của ân sủng.
Chương I
QUAN NIỆM VỀ ÂN
SỦNG
I. Định nghĩa
1.- Từ nguyên.
- Ta dùng tiếng ân sủng để dịch từ gratia. chữ này theo Hilạp là Kharis có nhiều
nghĩa :
a. Ân huệ, hảo
ý
b. Hồng ân, sự
ban tặng nhưng không
c. Lòng biết ơn
và cảm mến vì ân huệ đã được
d. Duyên dáng,
vẻ đáng yêu, vẻ đẹp của một thực tại cảm hóa ai, yêu mến và thi ân. (Tv 44,3).
Bốn ý nghĩa đó
liên quan với nhau.
Áp dụng vào
những tương quan giữa Thiên Chúa và tạo vật có lí trí, tiếng ân sủng vẫn giữ được
ba ý nghĩa trên. Còn nghĩa bốn thì không, vì nơi Thiên Chúa, không giả định sự
tốt lành, hoàn thiện và vẻ đẹp nơi thụ tạo ; trái lại chính Thiên Chúa là căn
nguyên và nguồn gốc của sự tốt lành hoàn thiện.
Ba ý nghĩa trên
áp dụng vào cả phạm vi tự nhiên cũng như siêu nhiên. Nhưng ở đây chỉ bàn về ơn
siêu nhiên.
2. Thực định
: Ân sủng siêu nhiên là một hồng ân siêu nhiên, Thiên Chúa ban cho tạo vật có lí
trí cách nhưng không để tạo vật đạt tới sự sống đời đời.
Một hồng ân
siêu nhiên vì vượt trên mọi yêu sách của bản tính tự nhiên, hồng ân cho con
người được thông dự vào bản tính Thiên Chúa. Hồng ân lại được ban một cách nhưng
không, để giúp con người đạt tới cứu cánh siêu nhiên là hạnh phúc vĩnh cửu, tức
là thị kiến thanh nhàn.
Nói hồng ân
siêu nhiên để phân biệt với hồng ân tự nhiên ; như sự sống, sự tự do... thì không
thuộc quyền đòi hỏi của cá nhân, nhưng là những điều bản tính loài người có thể
đòi hỏi ; trái lại những hồng ân siêu nhiên thì không thuộc quyền đòi hỏi của cá
nhân và của bản tính, vì chẳng những là đi trước, không lệ thuộc vào công trạng,
lại còn vượt quá mọi yêu sách và xu hướng của bản tính thụ tạo.
II. Các thứ ân
sủng. 1. Ân sủng được phân thành :
- ơn tự hữu
(gratia increata), là chính ý muốn nhân hậu của Thiên Chúa ban ơn cho ta. Như ơn
Ngôi Hiệp : ơn mà Ngôi Hai ban cho bản tính nhân loại nơi Chúa Giêsu.
- ơn thụ tạo
(gratia creata) là công hiệu của ơn tự hữu, khác với Thiên Chúa và được nhận vào
tạo vật.
2. Ân sủng được
phân biệt :
Ơn bên trong
và ơn bên ngoài, tùy được nhận vào trong hay ngoài chủ thể. Ơn mặc khải, lề luật
Thiên Chúa, gương sáng của chư thánh, là ơn bên ngoài.
Ơn bên trong
có hai thứ : ơn hiện tại hay hiện tại (gratia actualis) và ơn thường tại hay thường
tại (gratia habitualis).
Ơn hiện tại,
là sự trợ giúp siêu nhiên và tạm thời để tài năng linh hồn hành động trổi vượt
và thần linh.
Ơn thường tại,
là ơn Chúa ban trong linh hồn một cách bền vững theo lối tập quán, nhờ đó yếu tính
và các tài năng linh hồn được cất nhắc mộüt cách bền vững, khả dĩ sống và hoạt động
một cách siêu nhiên.
Chương II
NHỮNG LẠC THUYẾT VỀ ÂN SỦNG
Các lạc thuyết
về ân sủng có thể quy về hai nhóm : nhóm bất cập và nhóm thái quá.
I. Nhóm bất cập.
Nhóm này gồm
có Pelagius và Á-Pêlage.
1. Pelagius :
Để phản ứng chống phái Manichoeô và những kitô hữu, nại vào sự yếu đuối của bản
tính nhân loại mà bầu chữa cho tội lỗi của mình, Pelagius căn cứ vào sự lạc
quan của phái Khắc kỷ và những người Do thái, quá đề cao sức mạnh của bản tính
tự nhiên, đi đến phủ nhận sự cần thiết của ân sủng.
a. Sự tự do ý
chí- nhờ đó con người thoát khỏi Thiên Chúa - con người đã có khả năng làm lành
lánh dữ. Nếu không có khả năng tránh tội thì không thể có tự do ý chí Trong tự
do ý chí phải phân biệt ba điều : khả năng (posse); ưa muốn (velle); và hành động
(agere). Khả năng là do Thiên Chúa, nhưng ước muốn và hành động là thuộc quyền
tự do ý chí
b. Do quan niệm
tự do ý chí, ta luận ra rằng con người có thể tự sức mình tránh tội và làm việc
lành.
c. Vì thế bản
tính loài người lành mạnh và cường tráng, với tình trạng hoàn toàn quân bình.
d. Vì thế không
có tội tổ tông truyền; những trẻ sơ sinh ở trong một trạng thái như ông Ađam trước
khi sa ngã. Do đó chúng không cần bí tích rửa tội..
e. Đam mê và
sự chết và những đau khổ khác hiện nay nhân loại phải chịu không phải là hình
phạt tội lỗi, mà là tình trạng tự nhiên của bản tính nhân loại. Vì thế, trước
khi sa ngã, Ađam cũng phải chịu những đau khổ ấy.
f. Giáo phải
Pélage không phân biệt điều thiện tự nhiên và siêu nhiên, và quả quyết rằng,
con người do sức tự nhiên có thể lập công xứng đáng (de condigno) để được ân sủng
và sự sống vĩnh cửu, và tuân giữ luật Chúa trọn vẹn.
g. Ân sủng hoặc
tuyệt nhiên không cần, hoặc cùng lắm, chỉ cần để biết điều phải làm, sự phải tránh
cho dễ dàng hơn ; nhưng giáo phái Pélage chối mọi ân sủng tăng cường nghị lực
giúp ta được tự do làm lành lánh dữ.
2. Thời cận đại,
những người Duy lý, Duy thế tục, Duy tự nhiên cũng theo thuyết Pélage chủ trương
tính bản thiện bẩm sinh của con người (nhân chi sơ tính bản thiện).
Lạc thuyết này
đã bị Công Đồng Carthage, Ephèse, Orange, Trident. Vatican I luận phi.
3. Á-Pélage
(semipelagianismus). Lạc thuyết này khác với lạc thuyết Pélage ở chỗ công nhận
:
a. Sự thực hữu
của tội tổ tông truyền .
b. Sự cần thiết
tuyệt dối của ân sủng bên trong để con người được công chính hóa, để làm việc lành
và để đáng được sống vĩnh cửu.
c. Sự cần thiết
của ơn cứu chuộc và nhiệm tích thánh tẩy. Nhưng giống với Pélage, phủ nhận tính
cách hoàn toàn nhưng không của ân sủng.
Quả thực
trong việc phân phát ân sủng của Thiên Chúa, có hai cách xử trí : một là khác
thường (extraordinaire) như trường hợp của thánh Matthêô, Phaolô, Mađalena...,
trong những trường hợp này ân sủng đi trước tác động của sự tự do ý chí, như thế,
ân sủng được ban một cách hoàn toàn nhưng không ; hai là thông thường, như trường
hợp ông Giakêu, người trộm lành..., trong trường hợp này sự tự do ý chí đi trước
ân sủng, thứ ân sủng được ban tương xứng với công nghiệp và với sự chuẩn bị của
sự tự do ý chí.
Theo lạc thuyết
Á-Pélage, việc cứu độ được khởi sự nhờ sức tự nhiên của sự tự do ý chí nhưng được
kết thúc nhờ ân sủng. Việc khởi sự gồm các hành vi : nhìn nhận sự khốn nạn riêng,
nhìn nhận sự cần thiết phương dược thần linh, mong muốn phần rỗi, cầu xin cho được
cứu độ. Và sau khi nhận được ân sủng, con người có thể bền vững làm lành lánh dữ
mà không cần ơn Chúa trợ giúp.
Lạc thuyết Á
Pélage đã bị Công Đồng Orange luận phi.
4. Thệ phản
(Luther, Calvinus). Thuyết này chủ trương sự công chính nguyên thủy là điều cốt
yếu của bản tính nhân loại. Do đó sau khi sa ngã (tức là mất sự công chính nguyên
thủy). Bản tính con người bị hư hoại (biến tính, nhiễm độc) lại hoàn toàn mất tự
do ý chí. Do đó tội lỗi là một điều gì nội tại thiết thân của con người, kể cả
những việc chuẩn bị để được ân sủng cũng như những việc người ấy thực hiện sau
khi đã được công chính, đều là tội lỗi. Sự công chính chỉ hệ tại con người không
bị quy trách về những việc mình làm ; trước mặt Thiên Chúa con người chỉ có thể
sinh ra những tội lỗi.
II. Nhóm thái
quá.
1. Baius dạy
rằng con người tuyệt nhiên không thể làm việc lành nếu không có đức ái. Do đó sự
tự do ý chí nguyên nó chỉ có thể làm ta sa ngã phạm tội. Nếu không có ân sủng,
con người không thể tránh tội lỗi, cũng không thể lướt thắng một thử thách nào
hết. Vì thế mọi hành vi tội nhân đều là tội. Thuyết Baius bị thánh Piô V
(1567), Đức Gegoriô XIII (1579) và Đức Urbanô VIII (1641) luận phi.
2. Jansenius
cho rằng, để một hành vi là tốt , cần có ơn đức tin. Bởi vậy mọi hành vi của người
ngoại giáo đều là tội lỗi. Lạc thuyết này đã bị Đức Innocentê X (1653) và Đức
Alexandre VIII (1690) luận phi. M. Quesnell cũng chủ trương những sai lạc như
Jansenius và đã bị Đức Clêmentê XI (1713) luận phi.
Chương III
NHỮNG BẬC KHÁC
NHAU CỦA NHÂN LOẠI
TRONG TƯƠNG
QUAN VỚI ÂN SỦNG
Mọi người
trong nhân loại có thể ở trong một của năm bậc sau đây :
1. Bậc bản tính
tự nhiên thuần túy (status naturae purae). Trong bậc này, bản tính được dựng
nên không tội lỗi, cả tội tổ tông truyền và tội riêng, cũng không ân sủng : ngoại
nhiên cũng như siêu nhiên ; biết khuynh hướng về Thiên Chúa như Chúa tể vũ trụ,
và được những trợ giúp thích hợp để đạt tới những mục đích tự nhiên ; lại vương
phải dục vọng thác loạn, vì với sức tự nhiên, dục vọng hạ cấp không hoàn toàn vâng
phục lý trí, có khi làm cho lý trí ra mù quáng, ngoài ra còn có thể vương phải
tội lỗi.
Đây là bậc hoàn
toàn giả tưởng, vì không bao giờ thực hữu.
2. Bậc bản tính
vẹn toàn (status naturae integrae). Đây là bậc nguyên tổ Ađam được
sống với ơn ngoại nhiên khi Thiên Chúa tạo thành. Trong bậc này bản tính nhân
loại được hoàn toàn lành mạnh, nhưng không có ơn siêu nhiên vì chưa được cất nhắc
lên bậc siêu nhân.
3. Bậc bản tính
được cất nhắc (status naturae elvatae). Là bậc, ngoài những hồng ân tự
nhiên và ngoại nhiên, có những ơn siêu nhiên đích thực - như ơn thánh hóa, các
nhân đức phú bẩm và những ơn Chúa Thánh Thần. Đây là bậc nguyên tổ thừa hưởng
trưóc khi sa ngã.
4. Bậc bản
tính sa ngã (status naturae lapsae). Là tình trạng của con người sau khi
nguyên tổ phạm tội , và mất ân sủng và mọi hồng ân ngoại nhiên, trở nên bất lực
không thể đạt tới cứu cánh siêu nhiên. Về phần thượng, con người lìa bỏ Thiên
Chúa ; về phần hạ, con người cảm nhận sự phản loạn của các đam mê.
5. Bậc của
bản tính được sữa chữa, được cứu chuộc (status naturae reparatae vel
redemptae).
Thiên Chúa không
nỡ để loài người hư đi, đã quyết định cho Ngôi Lời nhập thể cứu chuộc con người,
phục hồi con người trong tình trạng ân sủng và khả năng đạt tới cứu cánh. Con
người nhờ công nghiệp của Đức Kitô, được tha thứ và được trả lại tình nghĩa với
Thiên Chúa. Về phần thượng, dù trật tự, do tội lỗi phá vỡ cũng được lập lại ; còn
về phần hạ, xác thịt vẫn phản loạn với linh hồn. Con người phải chiến đấu với đam
mê, một cuộc chiến không giới tuyến, vì các đam mê luôn khuynh hướng con người
về sự ác và tội lỗi.
Chương IV
SỰ CẦN THIẾT
CỦA ÂN SỦNG
Cứ sức tự nhiên,
con người không thể đạt tới cứu cánh siêu nhiên, trừ khi Thiên Chúa nhắc lên bậc
siêu nhiên và ban ơn thánh hóa. Phương chi sau khi sa ngã, con người trở nên yếu
đuối. Như thế chúng ta thấy ân sủng cần thiết như thế nào đối với con người.
Để nhận thức
chân lý, để yêu mến Thiên Chúa, đó là hành động của tài năng linh hồn, vậy nếu
không có sự hỗ trợ của Thiên Chúa là Tạo hóa khởi động thì thụ tạo không thể hành
động được ...
Chúng ta chỉ
bàn đến :
1. Ân sủng cần
thiết để hối nhân được hối cải tội lỗi.
2. Ân sủng cần
thiết để tránh lánh tội lỗi.
3. Ân sủng cần
thiết để người công chính làm lành lánh dữ.
4. Ân sủng cần
thiết để được bền vững trong điều thiện.
Tiết I. Sự cần
thiết của ân sủng để hối cải tội lỗi.
Ý nghĩa của hối
cải, hồi sinh - Ở đây hiểu "hối cải" là sửa mình, hồi sinh từ
sự chết trong tội. Hối cải không có nghĩa là đình chỉ việc phạm tội, mà phải chổi
dậy khỏi tội lỗi, là phục hồi những điều thiện đã đánh mất do tội lỗi. Tội trọng
làm ta mất những điều thiện siêu nhiên như ơn thánh hóa, các nhân đức và những
hồng ân khác kèm theo ; cả những điều thiện tự nhiên như việc lý trí tuân phục
Thiên Chúa, những điều thiện luân lý, do việc tuân phục ấy phát sinh. Như vậy có
hai thứ phục hồi :
1. Tự nhiên
hay luân lý nhờ đó con người lấy lại được những điều thiện tự nhiên đã mất
vì tội lỗi.
2. Siêu
nhiên, độ trì nhờ đó con người sa ngã phục hồi được những điều thiện siêu
nhiên bị tội lỗi tước đi.
Luận đề I (XLII).- Ơn
thường tại (ơn thánh hóa) cần thiết tuyệt đối để người sa ngã có thể chổi dậy và
hồi sinh siêu nhiên cách hoàn bị (đạt được công chính hóa)
Luận đề đưa ra chân lý
trung gian giữa các lạc thuyết thái quá và bất cập. Montanus và Novatianus cho
rằng có một số tội không thể tha, nên những người mắc phải không thể chỗi dậy.
Trái lại, nhóm Pelage cho rằng : cứ sức tự nhiên con người sa ngã có thể trở lại.
Chứng minh :
1. Thánh Kinh
: "Lạy Thiên Chúa xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa
tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội lỗi con xin Ngài thanh tẩy"
(Tv 51, 3-4) - "Xin dùng cành hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được
tinh tuyền ; xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết" - "Xin ngoảnh
mặt đừng nhìn bao tội lỗi và xóa bỏ hết mọi lỗi lầm" (Tv 51,9.11) -
"Bà sẽ sinh con trai và ông sẽ đặt tên con trẻ là Giêsu vì chính Người cứu
dân Người khỏi tội lỗi của họ"(Mt 1,12) - "Con Người sẽ đến để tìm và
cứu những gì đã mất" (Lc 19,10) - "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng
xóa tội trần gian" (Ga 1,29) - "Thật vậy mọi người đã phạm tội và đã
bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ
Thiên Chúa ban nhưng không, nhờ công nghiệp được cứu chuộc trong Đức Kitô"
(Rm 3, 23-24). "Tôi không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu, vì nếu
người ta được nên công chính do lề luật thì việc Đức Kitô chịu chết ra vô ích"
(Gl 2,21) - "... Nhưng vì Người thương xót nên Người đã cứu chúng ta, nhờ
phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và được đổi mới (.....).
Như vậy một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng
sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng" ( Tt. 3,4-7).
2. Đạo lý của
Giáo Hội . Giáo Hội đã xác định :
a. Không ai có
thể chổi dậy khỏi bất cứ tội nào, nếu không được lòng nhân hậu của Thiên Chúa hỗ
trợ trước.
b. Tính tự
nhiên và lề luật không đủ để vực ta dậy khỏi tội tổ tông truyền.
c. Nhưng cần
phải có ân sủng của Thiên Chúa.
d. Sau hết,
chỉ nhờ ơn thánh hóa của nhiệm tích hòa giải, tội nhân mới có thể tẩy rửa mình khỏi
tội đã phạm.
3. Lẽ thần học-
Sự chổi dậy siêu nhiên bao hàm sự sửa chữa ba điều ác do tội lỗi gây ra :
a. Vết nhơ tội
khiên.
b. Sự thác loạn
của bản tính tự nhiên.
c. Án phạt đời
đời.
Vậy chắc chắn
nếu không có ơn thánh hóa, không ai có thể sửa chữa được những điều ác đó.
Cho nên ơn thánh
hóa tức ơn thường tại cần thiết tuyệt đối để người sa ngã có thể chổi dậy và hồi
sinh siêu nhiên một cách hoàn bị.
Một khi mất ơn thánh
hóa, linh hồn người ta mắc phải vết nhơ tội lỗi, và tự nhiên có sự thác loạn
trong linh hồn. Sau nữa án phạt đời đời là hậu quả của tội trọng tức là lìa xa
Thiên Chúa.
***
Tiết II. Sự cần
thiết của ân sủng để tránh tội lỗi.
Điều ác phải
tránh là gì ? Có mấy thứ ?
Trong kinh
"Lạy Cha", Chúa Giêsu đã dạy phải xin cho khỏi sa chước cám dỗ. Những
cám dỗ có thể do ma quỷ, thế gian, xác thịt : có khi bởi một, có khi bởi cả ba
một trật. Các chước cám dỗ có thể nghịch với các giới răn tự nhiên hay giới răn
siêu nhiên. Chước cám dỗ có thể nhẹ hay nặng. Nặng có thể là tuyệt đối hay tương
đối với người mắc đam mê hay nết xấu nào đó. Cơn cám dỗ có khi trầm trọng có
khi bởi cường độ của nó có khi tại tính khí của người bị cám dỗ, có khi do tính
cách lâu dài và phức tạp của chính sự cám dỗ.
Khi bị cám dỗ,
con người có thể bị chiến bại , chiến thắng hay là cầm cự suông .
Sự chiến thắng
có thể là giả hiệu : Ví dụ như không ưng thuận tội dâm đảng vì hà tiện ; kiêng
khem các thức ăn thịnh soạn vì hư danh.
Chiến thắng vì
sợ không dám làm phật ý Chúa, do lòng mến Chúa, đó là chiến thắng có công.
Chiến thắng vì
sợ phải chịu hình phạt là chiến thắng độ trì (victoria salutaris).
Cũng có người
chiến thắng không vì lý do siêu nhiên mà vì sự đoan trang tự nhiên.
Ta nên lưu ý
có thể chiến thắng bề ngoài vì sợ luật hình, vì sợ ô danh, sợ nhiễm bệnh. Ví dụ
không dám báo thù vì sợ luật pháp, nhưng lòng còn ấp ủ hận thù ; không giám hành
lạc, nhưng lòng còn sôi sục thèm khát.
Muốn chiến thắng
thật, phải là chiến thắng bên trong chiến thắng thực sự .
Luận đề II (XLVI). Không
có sự trợ giúp của ân sủng, thì dù thiên thần hay phàm nhân, sống trong bất cứ
bậc nào, cũng không thể lấy nguyên sức tự nhiên mà thắng bất cứ chước cám dỗ nào
nghịch với bất cứ giới răn siêu nhiên nào.
Không có giới răn siêu
nhiên hoàn toàn tiêu cực, bởi vì sự quên sót bỏ bê hành vi, xét như bỏ quên thì
không thể là điều siêu nhiên. Các giới răn siêu nhiên thì hoặc là tích cực, hoặc
là đặt cơ sở trên những điều tích cực.
Chứng minh.- Ta thắng chước
cám dỗ nghịch với giới răn siêu nhiên bằng thực hiện một hành vi của nhân đức
siêu nhiên mà chước cám dỗ chống phá.
Vậy không có
sự trợ giúp của ân sủng thì không một thụ tạo nào có thể thực hiện một hành vi
siêu nhiên.
Cho nên không
có sự trợ giúp của ân sủng, thì dù thiên thần hay phàm nhân....
Hệ luận. 1. Để thắng
những cám dỗ nghịch với giới răn siêu nhiên của đức ái, của các nhân đức luân lý
phú bẩm, với ơn Chúa Thánh Thần, chẳng những phải có ơn hiện tại lại cần có ơn
thường tại nữa
2. Nhưng để
thắng những cơn cám dỗ nghịch với đức tin và đức cậy, ngoài ơn đức tin và đức cậy,
chỉ cần ơn hiện tại.
Tiết III. Sự
cần thiết của ân sủng
để người công
chính làm lành lánh dữ
Đặt vấn đề : Ở đây hãy
nói đến nghị lực của người đã được ơn thánh hóa, tức đã được công chính hóa. Vậy
ơn thánh đã đủ cho người lành làm điều thiện và tránh điều ác chưa ? Hay còn cần
ân sủng khác trợ giúp ?
1. Chủ thuyết
Pélage trả lời, ơn thánh không ban sức mạnh để tránh tội, chỉ tha tội đã phạm.
Nghị lực tránh tội và làm việc lành hoàn toàn do sự tự do ý chí.
2. Nhóm Á-Pélage
thì cho rằng ơn thánh hóa ban nghị lực cho con người làm lành lánh dữ, ngoài ra
không cần sự trợ giúp nào khác nữa.
3. Người Thệ
phản cho rằng tội lỗi là điều không một ai, dẫu là người lành, có thể tránh ; điều
duy nhất ơn thánh hóa có thể làm, là không quy trách tội lỗi cho chính nhân.
Các luận đề
sau sẽ trình bày đạo lý của Giáo Hội liên quan đến sự cần thiết của ơn thường tại,
ơn hiện tại, chung và riêng đối với bậc vẹn toàn, sa ngã, và bậc được sữa chữa.
Luận đề III (LII). Ơn
hiện tại siêu nhiên thì tuyệt đối cần thiết để người lành, sống trong bất cứ bậc
nào, có thể thực hiện bất cứ hành vi siêu nhiên nào, chẳng kỳ khó hay dễ, khiếm
khuyết hay hoàn bị.
Ơn hiện tại siêu nhiên
thánh Tôma gọi là sự trợ giúp của ân sủng (auxilium gratiae).
Sự trợ giúp hiện tại
tổng quát nầy cần cho mọi bậc và mọi hành vi ; vì người công chính xét như đã được
công chính hóa, có quyền đòi hỏi, vì mọi tài năng của con người vốn được Thiên
Chúa phú bẩm những tập quán để hành động ; tuy nhiên còn cần sự huy động của
Thiên Chúa. Ngoài ra còn có sự trợ giúp riêng (auxilium speciale) là thứ trợ giúp
mà người công chính không có quyền đòi, nhưng là sự can thiệp của Thiên Chúa
theo ý muốn của Người.
Chứng minh :
1. Thánh Kinh
: Chúa Giêsu nói với các tông đồ (là người công chính) : "Không có Thầy,
anh em chẳng làm được gì" (Ga 15,5). Thánh Phaolô cũng khẳng định một cách
tổng quát "Chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh
em do lòng yêu thương của Người" (Phaolô 2,13).
2. Đạo lý của
Giáo Hội. Trong mục lục về ân sủng (indiculum gratiae) có những lời sau đây :
"... để khi các tín hữu làm việc lành nào thì Thiên Chúa đánh động tâm hồn
họ bằng những soi dẫn của tình Cha, vì "phàm ai được Thánh Thần Thiên Chúa
hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa"; để chúng ta cảm thấy có sự tự do ý
chí, trong tất cả và trong mỗi một cử động của ý muốn nhân loại, ta không hoài
nghi là sự trợ giúp của Thiên Chúa thì giá trị hơn. Thiên Chúa thực sự hoạt động
trong tâm can và trong sự tự do ý chícủa con người, đến nỗi tư tưởng lành thánh,
khuyên nhủ đạo đức và mọi xoay xở của ý chí ngay lành đều bởi Thiên Chúa ; vì điều
gì lành chúng ta có thể làm cũng là do Người "Không có Người chúng ta chẳng
làm gì được" (Ga 15,5). Vậy có bao giờ chúng ta không cần sự trợ giúp của
Người không ? Bởi đó trong mọi hành vi, mọi nguyên nhân, mọi nghĩ tưởng, mọi cử
động ta phải cầu xin Người như Đấng cứu trợ và bảo vệ. Chúng ta hãy nhìn nhận và
tuyên xưng Thiên Chúa là tác giả của mọi ước muốn và mọi hành vi tốt lành, mọi
khuynh hướng và mọi nhân đức, nhờ những thứ đó, ta hướng tới Thiên Chúa lúc đức
tin mới chớm nở". Công đồng Orange II cũng nhấn mạnh đến những tư tưởng đó.
Con người không làm điều lành nào mà không có Thiên Chúa.
4. Lẽ thần học.
Không một tài năng nào, cũng không một tập quán nào, có thể trở thành hiện thể đệ
nhị cấp (hành động) nếu không được huy động bởi biến căn đệ nhất, bất khả biến.
Vậy các nhân đức
siêu nhiên hay phú bẩm cũng là những tập quán, khi hành động cũng cần được huy động
bởi biến căn đệ nhất và tối cao trong phạm vi siêu nhiên, là Thiên Chúa. Thánh
Tôma khẳng định : "Không bản tính thụ tạo nào dù chất thể hay thiêng liêng,
dù hoàn bị đến đâu, có thể hành động nếu không được Thiên Chúa huy động trước".
Cho nên ơn hiện
tại siêu nhiên thì tuyệt đối cần thiết...
Luận đề IV(LIV). Để
người công chính có thể giữ mọi giới răn tự nhiên và siêu nhiên của Thiên Chúa
suốt đời hay trong thời gian lâu dài và lướt thắng mọi chước cám dỗ nghịch với
các giới răn ấy, cần phải có ơn hiện tại đặc biệt (gratia aetualis specialis) của
Thiên Chúa .
1. Ở đây không tính
thời gian theo toán học, mà thời gian có nghĩa tương đối. Nói suốt đời thì hiểu
là đời sống trung bình của con người. Vì ngoài ra còn có những thời gian vắn vỏi
hơn kém, nhưng cũng đủ để cần một trợ giúp riêng.
2. Sự trợ giúp riêng
biệt này không ngầm hiểu đòi hỏi của con người dù là công chính, mà do lòng nhân
hậu thương xót của Thiên Chúa ban cho.
Chứng minh.- 1. Thánh Kinh
: Chúa Giêsu dạy phải canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ ; và xin
"chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ"
(Mt 3, 13). "Anh em hãy canh thức và cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ.
Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối"(Mt 26,41). Thánh Phêrô
cũng dạy các tín hữu "sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ thù địch của
anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé" (1Pr 5,8). Thánh
Phaolô cũng dạy điều đó một cách minh bạch (Ep 6,10-19 ; 1Cr 9.27).
2. Đạo lý của
Giáo Hội : Công đồng Orange II đã ấn định là "nhờ ơn Thiên Chúa, chúng ta
mới có thể dừng bước trước sai lầm và bất công. Phải luôn luôn xin Thiên Chúa
ban ơn trợ giúp, để những người đã được tái sinh và đã được chữa lành có thể đạt
tới mục đích tốt lành hoặc có thể kiên trì trong việc thiện". Công đồng
Trid. ấn định : "Ai nói rằng người công chính, không cần ơn trợ giúp đặc
biệt của Thiên Chúa vẫn có thể bền vững trong tình trạng công chính hóa, hoặc nói
rằng dầu với ơn trợ giúp đặc biệt, người công chính cũng không thể bền vững
trong tình trạng công chính hóa, thì bị vạ tuyệt thông."(D.S. 832/1572)
3. Lẽ thần học.
Thánh Kinh và các CĐ nhấn mạnh đến sự cần thiết của sự cầu nguyện kiên trì, để
tránh tội và khỏi sa chước cám dỗ.
Vậy mà chúng
ta phải cầu xin những điều mà tự sức chúng ta không đạt được.
Cho nên việc
cầu nguyện ngầm hiểu chỉ có Đấng chúng ta kêu cầu, tức Thiên Chúa mới có thể giúp
chúng ta lướt thắng mọi chước cám dỗ và lánh mọi tội lỗi. Và Thiên Chúa thực hiện
bằng sự trợ giúp riêng biệt, vì điều Chúa ban khi ta cầu xin là do lòng thương
xót chứ không do đức công bình hoặc công nợ.
Hệ luận : 1. Giáo hội
tin rằng Đức Trinh Nữ Maria đã được đặc ân miễn nhiễm suốt đời mọi tội nhẹ kịp
suy và không kịp suy.
2. Nếu chỉ nói
về những tội nhẹ đã kịp suy các nhà thần học nhất trí không thánh nhân nào được
ơn miễn nhiễm suốt đời.
Tiết IV. Sự cần
thiết của ân sủng
để bền chí
trong điều thiện.
Sự bền chí có
thể hiểu như là tập quán và như là hành vi. Là tập quán lại
có thể hiểu là thành phần của đức can đảm : sự kiên định trong điều thiện, bất
chấp những trở ngại, khó khăn do công việc lâu dài ; hoặc là một ý chí vững vàng
trong điều thiện. Là hành vi, khi con người tiếp tục thực hiện cho đến cùng. Vậy
người lành có thể bền chí trong điều thiện cho đến chết ?
Bền chí
|
Tập quán
Hành vi
|
Tạm thời
|
||
Đến cùng
|
Thụ động (chưa t.k.)
|
Vắn vỏi
|
||
Chủ động (tr.thành)
|
Lâu dài
|
2. Trong sự bền
chí đến cùng không kỳ thụ động hay chủ động, yếu tố mô thể là chết trong ân sủng.
Còn sự cộng tác lâu mau của người bền chí là yếu tố chất thể.
Lạc thuyết. Nhóm Á Pélage
chủ trương rằng trong hiện tình của bản tính nhân loại, không cần sự trợ giúp
riêng biệt của Thiên Chúa để bền chí đến cùng.
Andrés Vega
chỉ công nhận sự cần thiết của ơn trợ giúp riêng biệt đối với sự bền chí chủ động
và hằng ngày.
Những người
thuộc nhóm Jansenius và Augustiniano dạy rằng, trong bậc vô tội không cần sự trợ
giúp riêng biệt của Thiên Chúa để bền chí đến cùng.
Luận đề V (LX). Trong
bậc được cứu chuộc, để bền chí trong ân sủng cho đến cùng, ấy là chết trong khi
có ơn nghĩa cùng Thiên Chúa mọi người lành đều cần đến ân sủng rất đặc biệt.
(Nếu bàn về sự bền chí
chủ động và hằng ngày thì đây là chân lý đức tin).
Chứng minh.- 1. Thánh Kinh
"Người cao niên được đem đi như thế, kẻo sự gian tà biến đổi lòng họ, hoặc
sự gian dối lừa đảo linh hồn họ"(Kn 4,11); "Bởi linh hồn họ đẹp lòng
Chúa, nên Chúa sớm cất họ khỏi sự gian ác"(Kn 4,14).
Chúa Giêsu đã
cảnh giác chúng ta nhiều lần, nhiều cách : "Vậy anh em hãy canh thức, vì
anh em không biết ngày nào giờ nào" (Mt 25,23).
2. Đạo lý của
Giáo Hội. - CĐ Orange II đã ấn đinh rằng : những người đã được tái sinh và được
chữa lành phải luôn luôn xin ơn trợ giúp để đạt mục đích tốt lành và kiên trì làm
việc thiện.
CĐC Trid. gọi
sự bền chí đến cùng là hồng ân vĩ đại, chỉ một mình Thiên Chúa có thể ban. CĐ còn
long trọng ấn định : "Nếu ai nói rằng không cần sự trợ giúp riêng biệt của
Thiên Chúa, người được công chính hóa có thể bền đỗ trong sự công chính, hay với
ơn trợ giúp ấy cũng không thể bền đỗ, thì mắc vạ tuyệt thông.
3. Lẽ thần học.
Rất ít người đã sa ngã và chổi dậy biết tránh lánh mọi tội lỗi và lướt thắng mọi
cám dỗ trong thời gian lâu dài. Như thế muốn được bền đỗ đến cùng, phải được ơn
đặc biệt, vì người được công chính hóa đã có ơn thánh hóa là ơn thường tại cùng
với các ơn Chúa Thánh Thần rồi.
Sự bền chí hiểu
là tập quán hay hành vi thì cũng là hành động lệ thuộc ý muốn. Vậy một đàng không
tập quán nào có thể làm cho sự tự do ý chíthành cố định trong điều thiện, đàng
khác ý muốn là tài năng có thể tự ý sử dụng hay không những tập quán ấy.
Cho nên người
công chính phải có ân sủng đặc biệt để được bền chí trong ơn nghĩa đến cùng.
Hệ luận I.- Trong bậc sa
ngã người công chính thực sự cần ba loại trợ giúp siêu nhiên : - a. Trợ giúp siêu
nhiên tổng quát, tự nó đủ để làm những việc siêu nhiên và đáng công dễ dàng ; -
b. Trợ giúp siêu nhiên riêng biệt cần cho những việc gay go, để lướt thắng những
chước cám dỗ trầm trọng, và để được bền đỗ lâu dài ; - c. Trợ giúp siêu nhiên đặc
biệt, cần thiết để bền đỗ đến cùng.
II.- Ơn bền đỗ đến
cùng khác với ơn được củng cố trong điều thiện (confirmatio in bono).
Ơn bền đỗ đến
cùng là hồng ân chung được ban cho mọi người được tiền định ; ơn được củng cố
trong điều thiện là ơn được ban cho một số người đắc sủng đặc biệt như ơn Chúa
ban cho Đức Trinh Nữ Maria, có khi chỉ gìn giữ cho khỏi tội nặng như theo một số
nhà thần học, ơn ban cho các tông đồ.
&&&&&&&&&&&&&&&&
Đoạn II
VỀ BẢN CHẤT CỦA
ÂN SỦNG
Ở đây, bản tính
của ơn thường tại và của ơn hiện tại sẽ được bàn một trật trong bốn chương sau.
Chương I : Ân
sủng có đưa một thực tại thụ tạo nào vào linh hồn chăng ?
Chương II : Ân
sủng có phải là một phẩm tính chăng ?\
Chương III : Ân
sủng thực sự có khác với nhân đức chăng ?
Chương IV :
Chủ thể riêng biệt và trực tiếp của ân sủng có phải là yếu tính của linh hồn chăng
?
Chương I
ÂN SỦNG CÓ ĐƯA MỘT THỰC TẠI
THỤ TẠO NÀO VÀO LINH HỒN CHĂNG ?
Đặt vấn đề. Nếu ân sủng có đưa một thực tại nào vào linh hồn, thì thực tại đó là điều thụ tạo hay tự hữu.
Để giải quyết
vấn đề, cần xác định ý nghĩa của hạn từ ân sủng. Sách Giáo lý của Giáo Hội Công
giáo định nghĩa : "ân sủng là một hồng ân, một trợ giúp nhưng-không Thiên
Chúa ban cho ta, để hưởng ứng lời Người mời gọi trở nên con Thiên Chúa, nên nghĩa
tử, nên những người thông phần vào bản tính Thiên Chúa và sự sống vĩnh cữu. (số
1996)
Nhưng theo ngôn
ngữ thông thường, "ân sủng" có ba ý nghĩa :
1. Nghĩa chủ động
: lòng yêu thương người nào. Ví dụ : viên sỹ quan đắc sủng với nhà vua, nhà vua
thương yêu sỹ quan.
2. Nghĩa thụ động
: hồng ân được ban nhưng không ; như khi nói : tôi cho anh ân huệ này.
3. Ý hiệu lực
: lòng biết ơn, việc cảm tạ vì ân huệ đã được.
Hiểu theo nghĩa
2 và 3 , thì quả nhiên ân sủng có đưa một thực tại thụ tạo vào linh hồn, nhưng
xét theo nghĩa một thì sao ?
Ý kiến : Những người
Thệ phản cho rằng : một người có thể được ơn nghĩa với Thiên Chúa, nhưng không
nhận được thực tại nào trong linh hồn : đây chỉ là đức công bình của Thiên Chúa
được gán từ bên ngoài cho người ấy.
Phêrô Lombarđô
nghĩ rằng người đắc sủng với Thiên Chúa nhận được nơi linh hồn một hồng ân siêu
nhiên nhưng là hồng ân tự hữu, là chính Ngôi Chúa Thánh Thần.
Định đề : Ân sủng được
hiểu như hành vi yêu thương hằng hữu của Thiên Chúa, thì không đưa vào linh hồn
điều gì cả. Vì đối với loài người, lòng yêu thương của Thiên Chúa là một ân sủng,
nhưng đó là hành vi của Thiên Chúa, đồng nhất với yếu tính của Thiên Chúa, là yếu
tính của Thiên Chúa.
Luận đề VI (LXII). Ân
sủng hiểu như ân huệ hay lòng nhân hậu của Thiên Chúa, thực sự đưa vào linh hồn
người đắc sủng : A, thực tại siêu nhiên, nội tại; B, thụ tạo; C, thực sự khác với
linh hồn và những tài năng của linh hồn.
Chứng minh.- 1. Thánh Kinh
: "Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần trí mới vào lòng
các ngươi.... Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết
của Ta và đem ra thực hành" (Ez 36,26-27) "Anh em đã mặc lấy con người
mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh của Đấng Tạo Hóa để được ơn thông
hiểu" (Cl 3,10) "Vì thế, anh em..., phải đổi mới trong tâm trí anh em
và mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên
Chúa, để thật sự sống công chính và thánh thiện" (Ep 4,..24). "Thiên
Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban
cho chúng ta" (Rm 5,5)
Thực tại thụ
tạo ban cho chúng ta được gọi là tinh thần nghĩa tử (Rm 8,15.16), là ấn
tín của Thiên Chúa (2 Cr 1,22 ; Ep 1,13.14...), sự xức dầu (2 Cr
1,21), mầm sống của Thiên Chúa (1 Ga 3,9), hạt giống bất diệt (1
Phêrô 1,23), "Nước tôi cho... nước vọt lên đem lại sự sống đời đời"
(Ga 4,14). Và như vậy chúng ta được thông phần bản tính của Thiên Chúa (2 Phêrô
1,4).
2. Đạo lí của
Giáo Hội.- Công Đồng Vienne cho ý kiến sau đây là cái nhiên : trong bí tích Rửa
tội, các nhân đức và các ân sủng, cũng như tập quán, được ban cho người lớn cũng
như cho hài nhi.
CĐC Trident.
sau khi liệt kê các căn nguyên của ân sủng, đã long trọng ấn định về nguyên nhân
mô thể rằng : nguyên nhân mô thể duy nhất (của ân sủng) là sự công chính của
Thiên Chúa... thứ công chính làm cho ta được thánh hóa, tức là nhờ Người thông
ban mà chúng ta không những được kể như, mà còn được gọi là công chính mà kì thực
là như thế ; nhưng chúng ta nhận vào mình theo mức độ Chúa Thánh Thần phân phát
theo ý Người và tùy theo sự chuẩn bị và cộng tác của mỗi người. Ân sủng này
"bám" vào linh hồn và có thể tăng triển.
Đức Piô V đã
luận phi ý kiến của Bagiô cho rằng : sự công chính hóa được thể hiện do sự giữ
trọn giới răn, chứ không do ơn thường tại được phú vào linh hồn.
3. Giáo thuyết
của các Giáo Phụ.- Thánh Ignatio tử đạo dạy rằng : ân sủng thay đổi và cải biến
chúng ta đến độ chúng ta trở thành người mang Chúa Kitô, mang Thiên Chúa
(Christiferi, Deiferi). Thánh Gregorio Nysseno cho ân sủng là họa ảnh hay hình ảnh
Thiên Chúa được in vào ta, cho nên là nội tại trong ta ; thánh Ephrem Syri nói
: ân sủng in hình ảnh mới thay vì hình ảnh xấu xí của Ađam thứ nhất".
4. Lẽ thần học
: phần A: Một thực tại siêu nhiên (chống với chủ trương của thệ phản).
Tình yêu hay
lòng nhân hậu của Thiên Chúa , khác với mọi tình yêu của phàm nhân, không bị
huy động hay kích thích bởi điều thiện nào của đối tượng, nhưng là căn nguyên
phát sinh ra điều thiện ấy.
Sở dĩ ta yêu mến quý
chuộng ai, vì ta khám phá ra một điểm nào đó làm cho ta có thiện cảm với người ấy.
Chính điều khám phá đó làm phát sinh tình mến nơi ta. Còn tình yêu của Thiên Chúa,
hiện hữu thuần túy, là nguyên nhân của mọi sự hoàn thiện nơi vật thụ tạo. Vì thế
tình yêu Thiên Chúa hoàn toàn chủ độüng, chứ không bị kích thích bởi điều thiện
thụ tạo.
Cho nên khi một
tạo vật được Thiên Chúa hài lòng yêu thương, thì chính vì lòng nhân hậu của Thiên
Chúa đã phú ban vào tạo vật ấy điều làm cho nó khả ái và đẹp lòng Người.
Nhưng đối với
thụ tạo có lý trí, Thiên Chúa dành một tình yêu ưa ái (proedilectio), một tình
yêu thiết thực và nội tại là được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa.
Mà sự thông dự
sự sống của Thiên Chúa cách nội tại và siêu nhiên được gọi là ân sủng.
Cho nên ân sủng
là thực tại siêu nhiên, nội tại Thiên Chúa đặt vào linh hồn.
Phần B. (Thực
tại đó là ) thụ tạo : phi bác ý kiến của Phêrô Lombarđô.
1. Hồng ân
Thiên Chúa chỉ có thể ở trong linh hồn theo ba cách : - Do ngôi hiệp, cách này
không thể, vì chỉ có nơi Chúa Giêsu ; - do mô thể mô thể hóa, cách này cũng không
thể vì Thiên Chúa là hữu thể thuần túy không bị đón nhận và không thể bị đón nhận
(actus irreceptus et irreceptibilis) ; nên chỉ có theo cách cư ngụ
(inhabitatio), như đối tượng được nhận biết và yêu mến. Và đây là cách Chúa Thánh
Thần thực sự ngự trong linh hồn mọi kẻ lành.
Nhưng sự cư
ngụ này chỉ thể hiện khi một thực tại thụ tạo siêu nhiên được thông ban cho kẻ
lành ; thực tại đó chính là ân sủng.
Cho nên ân sủng
là thực tại thụ tạo siêu nhiên.
2. Chính nhân
(kẻ lành) phải hoạt động siêu nhiên, phải thực hiện những hành vi có công trạng
để sống đời đời. Để được như thế, thì các tài năng, từ nội tại, phải được cất
nhắc. Sự cất nhắc đó chỉ có thể thực hiện do sự thông ban những sức mạnh siêu
nhiên thụ tạo.
Cho nên ân sủng
là thực tại thụ tạo siêu nhiên.
Phần C. thực
sự khác với linh hồn...(Phi bác ý kiến của Palmieri)
1. Theo thực
thể và mô thể, ân sủng là điều siêu nhiên, thế nên vượt quá mọi tính tự nhiên với
những nghị lực và yêu sách của bản tính ấy. Do đó ân sủng thì khác với...
2. Ân sủng có
thể tăng giảm nơi một người lành, nhưng linh hồn và các tài năng của linh hồn
thì không tăng...
3. Ân sủng có
thể bị đánh mất vì tội trọng, nhưng ta không thể đánh mất linh hồn và các tài năng,
cũng chẳng có thể lấy lại được. Cho nên ân sủng thực sự khác với linh hồn và những
tài năng của linh hồn.
Chương II
ÂN SỦNG CÓ PHẢI
LÀ MỘT PHẨM TÍNH KHÔNG
Chúng ta sẽ tìm
hiểu ân sủng dưới hai phương diện : phương diện hữu thể thụ tạo và phương diện
mô thể siêu nhiên.
Là hữu thể thụ
tạo, ân sủng phải được xếp vào một phạm trù nào đó của hữu thể. Là mô thể siêu
nhiên, thì tính siêu nhiên của ân sủng hệ tại điều gì.
Nhưng vì ân sủng
có thể là ơn thường tại (habituallis) và ơn hiện tại (actualis). Vì thế sẽ có
hai tiết bàn riêng về mỗi thứ ân sủng.
Tiết I. Bản tính
của ơn thường tại.
Tiết II. Bản
tính của ơn hiện tại.
Tiết I. Bản tính
của ơn thường tại
Như đã nói,
chúng ta sẽ thấy ân sủng được tìm hiểu dưới cả hai phương diện : chất thể như là
hữu thể và mô thể như là siêu nhiên
§ 1. Yếu tính
của ơn thường tại xét theo hữu thểí thụ tạo
Ân sủng là một
hữu thể thụ tạo, nên phải là bản thể hay phụ thể (nghĩa là một trong 10 phạm trù).
Luận đề VII (LXIII). Ơn
thường tại là một phụ thể, chứ không thể là bản thể.
Chứng minh.- 1. Theo CĐC
Trident. Ân sủng là một thực tại "bám" vào con người. Mà thực tại bám
vào một bản thể là phụ thể. Cho nên ơn thường tại là một phụ thể, chứ...
2. Cũng theo
CĐC Trident, ân sủng có thể được tăng gia, cường tráng, phát triển.
3. Chính CĐC
Trident cũng ấn định ân sủng là mô thể duy nhất làm cho chúng ta nên công chính
hóa. Vậy mà ân sủng không thể là mô thể bản thể, và vì là siêu nhiên, nên không
thể thuộc về bản thể con người. Cho nên...
4. Nếu ân sủng
là bản thể thụ tạo siêu nhiên, thì bản thể cũng có những hoạt động bản nhiên
(theo bản tính được dựng nên, như thị kiến và yêu mến thanh nhàn). Nhưng đó là
những hoạt động riêng biệt (distinct) và chuyên biệt (special) của Thiên Chúa mà
không thể là hoạt động bản nhiên của bất cứ thụ tạo nào.
Luận đề VIII
(LXIV).- Ơn thường tại : A, không phải là một tương quan ; mà B, là
một phẩm tính của linh hồn ; và C, là một tập quán (thói quen).
Có chín phạm trù phụ
thể, vậy ơn thường tại thuộc phạm trù nào. Ân sủng là điều thiêng liêng, hiển
nhiên không thể thuộc một phạm trù nào hàm súc chất thể hay trương độ như lượng,
thời điểm (khi nào), vị trí (ở đâu), tư thế, trang phục. Ơn thường tại là điều
bền vững, không phải là cái gì mau qua, nên cũng không thể là hành động hay thụ
động. Vậy chỉ còn hoặc là tương quan hay phẩm tính.
Chứng minh.- A. Ơn thường
tại không phải là một tương quan.
Theo triết học,
tương quan hoặc lý định hay thực định (relation logique, relation réelle, luận
lý hay thực tại) ; mà tương quan thực định thì hoặc là siêu việt hay phạm trù.
Vậy ơn thường
tại không phải là thứ nào trong các tương quan ấy.
Cho nên ơn thường
tại không phải là tương quan.
* Không phải
là tương quan lý định (luận lý).
Ân sủng là một
thực tại được thông ban cho ta, bám lấy linh hồn ta, có thể được tăng trưởng, đổi
mới nội tâm chúng ta, làm cho chúng ta thông phần bản tính Thiên Chúa. Cho nên
không phải là một tương quan lý định.
** Không phải
là tương quan siêu việt.
Tương quan siêu
việt, xét như hướng về một thực tại khác (như tác căn, cứu cánh, mẫu mã...) chính
là thực tại tuyệt đối, nên được hàm chứa trong thực tại ấy và thực sự đồng nhất
với nó. Thực tại tuyệt đối này không thể là một thực tại tự nhiên, vì Thiên Chúa
xét như là tác giả của bậc siêu nhiên, thì không một vật tự nhiên nào có thể có
tương quan siêu việt với Người. Nếu hiểu rằng có tương quan như thế tức là phủ
nhận bậc siêu nhiên.
Thế nhưng, ơn
thường tại (ân sủng) là một cái gì thuộc cấp bậc siêu nhiên (do Thiên Chúa thông
ban), nên phải giả định là nó đồng nhất với một thực tại thuộc bậc siêu nhiên.
Như thế thì ơn
thường tại không còn là tương quan đơn thuần nữa, mà là một mô thể siêu nhiên có
tương quan siêu việt, như thấy nơi các tập quán siêu nhiên : tin, cậy, mến... Các
tương quan siêu việt không tác thành một phạm trù riêng, có thể gặp thấy nơi mọi
phạm trù, vì thế mà gọi là siêu việt.
*** Không phải
là tương quan phạm trù.
a/ Ơn thường
tại có thể được tăng gia. Nhưng tương quan không thể gia tăng.
b/ Ơn thường
tại là điểm tới trực tiếp (terminus imme-diatus) của hoạt động Thiên Chúa. Nhưng
tương quan không thể là điểm tới của hành vi nào hết.
c/ Tương quan
không thể là nguyên lý của công việc, cũng không ban nghị lực để có thể hoạt động.
Ân sủng là nguyên lý của hoạt động và ban cho ta nghị lực để hoạt động.
B. Mà là một
phẩm tính của linh hồn.
Sau những giải trừ trên
đây, chúng ta phải công nhận ơn thường tại thuộc phạm trù phẩm tính.
1. Phẩm tính
là điều phẩm định một chủ thể và là nền tảng làm cho chủ thể ấy giống với chủ
thể khác.
Vậy nhờ ân sủng,
phàm nhân được phẩm định để đẹp lòng Thiên Chúa : nên công chính, bầu bạn, nghĩa
tử và thừa kế của Người ; lại nhờ ân sủng mà phàm nhân có mô thể (formaliter
similem) giống Thiên Chúa. Cho nên ơn thường tại là một phẩm tính.
2. Khi quan
phòng cho các vật siêu nhiên, chẳng những Thiên Chúa hào hiệp và quảng đại không
kém gì khi quan phòng cho các vật tự nhiên, trái lại phải tin là Người còn hào
hiệp và quảng đại hơn, vì là sự quan phòng phát xuất từ tình thương yêu cao trọng
hơn.
Cho nên trong
sự quan phòng siêu nhiên, để các vật có lý trí có thể đạt tới cứu cánh siêu nhiên,
tức là phúc trường sinh một cách thanh thản tự nhiên, hẳn Thiên Chúa đã thông
ban những mô thức và những nhân đức siêu nhiên bền vững, là nhờ nguyên lý bản
nhiên của các hoạt động siêu nhiên.
Mà những mô
thức và những nhân đức siêu nhiên đó là những phẩm tính.
Cho nên ơn thường
tại là một phẩm tính.
C. Và là một tập quán.
Phẩm tính gồm bốn cặp
là : dự bị và tập quán (Disposition, habitude) ; khả kham và bất khả kham
(capacité, incapacité) ; biến thái (métamorphose) và biến thể
(Transubstantiation) ; vóc dáng (taille) và hình thù (forme).
Ơn thường tại không
thể thuộc về vóc dáng và hình thù, vì chúng ngầm hiểu chất thể và trương độ. Cũng
không thể là biến thái và biến thể, vì chúng chỉ phẩm định phần khả cảm thấp kém,
không có nơi các thiên thần và ly hồn.
Cũng không thể là khả
kham và bất khả kham, vì khả kham là điều gì tự nhiên, phát xuất một cách tự phát
và bởi chính tính tự nhiên ; có thể được dùng để làm điều thiện hay là điều ác
; lại trực tiếp hướng về hoạt động. Mà không một điều nào trên đây phù hợp với ân
sủng.
Sau hết không thể
quan niệm ân sủng như một sự dự bị, vì CĐC Tridentino xác định sự dự bị ấy hệ tại
sự gì, lại phân biệt minh mạch sự dự bị với ân sủng hay thánh sủng.
1. Thánh sủng
là sự thông dự thể lý và mô thể (thực sự và chính thức) bản tính Thiên Chúa, sự
thông dự ấy phải là một mô thể thể lý bền vững, tức là tập quán, chứ không phải
là sự dự bị.
2. Thánh sủng
thì thay thế bản tính siêu nhiên hay là một nguyên lý cơ bản của sự sống thần
linh và siêu nhiên của linh hồn chúng ta. Mà bản tính theo định nghĩa thì bền vững,
cố định.
3. Thánh sủng,
cũng như đức ái - theo đặc tính riêng - khó biến dạng, vì theo tác căn cũng như
theo mô thể riêng thì không thể mất ; tuy chủ thể có thể mất ân sủng, vì thông
dự ân sủng một cách khiếm khuyết.
4. Hơn nữa, ân
sủng cũng như đức ái, vì hàm súc sự gắn bó keo sơn với vật được yêu mến, với thị
kiến thanh nhàn, nên không thể mất. Cho nên hàm súc sự kiên định, mà nó thông
cho các nhân đức và những hành vi từ nó phát sinh.
5. Ân sủng nơi
các trẻ nhỏ và nơi người trưởng thành thì như nhau. Nhưng nơi các trẻ nhỏ chưa
biết dùng trí khôn, ân sủng mang tính chất của một mô thể vững bền.
Cho nên ơn thường
tại là một tập quán.
II § YẾU TÍNH
CỦA ƠN THƯỜNG TẠI
XÉT THEO MÔ
THỂ SIÊU NHIÊN.
Đặt vấn đề.- Xét như phẩm
tính siêu nhiên, ân sủng còn được nghiên cứu theo hai phương diện khác nhau :
trong tương quan với tính tự nhiên mà nó trổi vượt ; trong tương quan với Thiên
Chúa mà nó được thông dự. Tuy là hai phương diện của vấn đề nhưng hàm chứa lẫn
nhau, vì mọi thứ trổi vượt và lướt thắng vật thụ tạo đều giả định sự tiến gần và
tiếp cận với Thiên Chúa. Vì thế, điều khó hiểu ở đây chính là sự thông dự bản tính
Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng siêu nhiên theo yếu tính, vô cùng trổi vượt trên
mọi vật thụ tạo. Mọi vật thụ tạo siêu nhiên đều là siêu nhiên theo thông dự.
Vậy sự thông
dự này là gì ? Và được thể hiện như thế nào ?
Xác định ý
nghĩa.- 1. Mọi vật thụ tạo đều thông dự hữu thể của Thiên Chúa, là
hữu thể do yếu tính (hay hữu thể tự lập hữu), nhưng không phải mọi vật thụ tạo
là siêu nhiên. Cho nên ta thấy vật thụ tạo tự nhiên và siêu nhiên thông dự hữu
thể do yếu tính cách khác nhau. Và sự khác nhau đó là gì ?
2. Các thụ tạo
tự nhiên thông dự hữu thể theo yếu tính trong những hoàn thiện chung như hiện hữu,
sinh sống, hiểu biết... còn các thụ tạo siêu nhiên thông dự những hoàn thiện riêng
biệt của Thiên Chúa như nhìn thấy chính yếu tính của Thiên Chúa nhãn tiền, vui
hưởng hạnh phúc của Thiên Chúa.
3. Các thứ thông
dự riêng biệt - sự thông dự có thể là luân lý hay thể lý ; thể lý có thể là
theo tiềm lực hay theo mô thể ; mô thể còn chia thành đơn nghĩa hay loại suy ;
chủ vị và khách thể.
1o)
Sự thông dự luân lý (participatio moralis) thể hiện theo lối bắt chước. Ví dụ
khi ai bắt chước đức tin của Abraham thì được gọi là con cái của Abraham, còn
ai bắt chước sự gian manh của ma quỷ thì gọi là con cái ma quỷ.
Sự thông dự
thể lý (participatio physica), thể hiện bằng cách bắt chước Thiên Chúa trong sự
đoan chính luân lý mà còn bằng cách nhận lĩnh một thực tại thể lý vào linh hồn,
từ đó như từ căn nguyên thể lý phát xuất ra những thực tại thể lý khác nữa, như
những nhân đức siêu nhiên phú bẩm (xem số 5 ở dưới).
2o)
Thông dự thể lý theo tiềm lực (participatio physica virtualis), là khi điều hoàn
thiện của vật được thông dự chỉ thấy một cách trách tuyệt nơi chủ thể thông
ban, như mầm sống có một cách trác tuyệt nơi cây cối.
Còn thông dự
thể lý theo mô thể (participatio physica formalis), là khi điều hoàn thiện có một
cách thể lý và nội tại nơi vật được thông dự lẫn nơi chủ thể thông ban, như sức
nóng hơi nước và nơi nhiên liệu.
3o)
Thông dự thể lý theo mô thể đơn nghĩa lực (parti-cipatio physica formalis
univoca), khi điều hoàn thiện thông ban có nơi vật thông dự và chủ thể thông
ban theo cũng một lý tính.
Còn nếu điều
thiện được thông ban, theo lý tính đơn thuần thì khác nhau, nhưng giống nhau
theo khía cạnh hay tỷ lệ nào đó thì gọi là thông phần thể lý theo mô thể và loại
suy (participatio physica formalis analoga).
Khi nói ân sủng
là sự thông dự bản tính Thiên Chúa thì phải hiểu là thông dự thể lý theo mô thể
và loại suy mà thôi, vì không thể gán hữu thể theo đơn nghĩa cho Thiên Chúa và
cho các vật thụ tạo được.
4. Thông dự
chủ vị và khách thể (participatio Subjectiva et objectiva). Sau hết nên lưu ý rằng
chúng ta có thông dự bản tính Thiên Chúa hoặc cách chủ vị, qua một mô thể nội tại
và bám vào chủ thể ; hoặc khách thể, như đối tượng của các nhân đức và của những
hành vi siêu nhiên. Hiển nhiên ở đây chúng tôi chỉ bàn về sự thông dự chủ vị
qua một mô thể nội tại liên kết với linh hồn.
5. Không thể
quan niệm ơn thường tại (gratia habitualis) như một thực tại trơ trụi, mà phải
hiểu như một bản tính siêu nhiên, từ đó phát sinh ra những đặc trưng và những
nhân đức siêu nhiên, phú bẩm, là những tài năng trực tiếp hoạt động (potentiae
proximae operativae) ; rồi từ các nhân đức hay tài năng này phát xuất ra những
hành vi hay những hoạt động siêu nhiên. Thành thử các nhân đức siêu nhiên là điều
thuộc về ơn thường tại, phát xuất từ ơn thường tại và hướng về ơn thường tại như
là một sự bổ sung ; còn các hành vi cũng phát xuất từ ơn thường tại như từ cội
nguồn hoặc từ căn đế xa. Do đó ta có thể so sánh ân sủng, các nhân đức và những
hành vi với linh hồn, tài năng và hành động.
Những khía cạnh
(phương diện) cần phân biệt nơi Thiên Chúa. 1. Bản tính của Thiên
Chúa : Hữu thể lập hữu hay hữu thể theo yếu tính. Là căn nguyên đệ nhất của tất
cả những thực tại nơi Thiên Chúa. Là nguồn gốc của mọi hoạt động và mọi phát xuất.
2. Nguyên khởi
gần của một hoạt động và mọi sự phát xuất : là những tài năng gần hoạt động :
trí tuệ và ý muốn.
3. Hành vi nội
tại hay sự sống đệ nhị cấp của Thiên Chúa : sự thông biết và sự ưa thích của
Thiên Chúa.
4. Hạnh phúc
của Thiên Chúa : Thiên Chúa nhận biết yếu tính của mình và thưởng thức sự tốt lành
vô cùng của mình.
5. Nhiệm xuất
hay sự phong nhiêu của Thiên Chúa : Chúa Cha nhiệm sinh Ngôi Lời theo lối hiểu
biết : Ngôi Cha và Ngôi Lời nhiệm xuất Chúa Thánh linh theo lối tình yêu.
Lạc thuyết. Xét theo tương
quan với tính tự nhiên, Luther đồng hóa ân sủng với tính tự nhiên. Những người
Duy lý hay Bán Duy lý, những người theo thuyết Pélage hay Bán Pégale chủ trương
rằng ân sủng không vượt quá sức của con người, chẳng kỳ là sức ý thức hay yêu mến
hoặc cả hai. Sau hết Baius, Jansenius, Quesnell và những người theo thuyết Duy
tân (Modernisme) thì cho con người có quyền yêu sách, đòi hỏi cho được ân sủng.
Luận đề IX
(LXV) Ân sủng xét theo cốt tính như siêu nhiên thì trổi vượt trên : A. mọi bản
tính đã được tạo thành ; B. mọi nghị lực chủ động của bản tính tự nhiên ; C. mọi
sức nhận biết và yêu mến của tính tự nhiên đã được tạo thành ; Đ. mọi công trạng
và mọi yêu sách của bản tính tự nhiên, dù là bản tính còn ở trong bậc vẹn toàn.
Chứng minh.- A. (...vượt
trổi mọi bản tính đưọc tạo thành hay có thể được tạo thành). Xét theo cốt tính
siêu nhiên thì ân sủng thuộc cấp bậc siêu nhiên ; mà mọi vật được tạo thành hay
có thể được tạo thành thì bản tính của chúng thuộc cấp bậc tự nhiên. Cho nên ân
sủng phải là trổi vượt trên mọi bản tính được tạo thành hay có thể được tạo thành.
Tuy nhiên vấn đề sẽ được bàn rộng thêm.
B. (mọi sức
chủ động của bản tính tự nhiên). Điều này sẽ được bàn đến trong đoạn IV về tác
căn của ân sủng.
C. (Mọi sức
nhận biết và yêu mến..) 1. Thánh kinh.- Tân ước : "Lạy Cha là Chúa trời đất,
Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không Chúa cho bậc khôn ngoan thông thái
biết những điều nầy, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. (Mt. 11, 25
-26) ; "chẳng ai đến được với tôi, nếu Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, không lôi
kéo người ấy" (Ga. 6, 44)
2. Lẽ thần học.-
Chỉ có thiên thần và con người có tài năng để hiểu biết và yêu mến. Đối với con
người để vươn tới những chân lý siêu nhiên, cần phải có sức mạnh siêu nhiên đến
trợ giúp tức là ân sủng. Như vậy, ân sủng phải vượt trên hai tài năng nhận biết
và yêu mến của linh hồn, mà linh hồn là một thụ tạo được tạo thành.
D.(Trỗi vượt
trên mọi yêu sách của bản tính tự nhiên.)
1. Thánh
kinh.- Thánh kinh nhắc đi nhắc lại cho chúng ta biết, nhờ ân sủng, chúng ta trở
nên nghĩa tử của Thiên Chúa, hoặc nhận được tinh thần nghĩa tử. (Rm. 8, 14-17 ;
Ep 1,5 ; 3,1).
Vậy việc nhận
nghĩa tử - theo luật lệ của mọi dân tộc và mọi thời đại, cũng như theo Thánh
Kinh,- là hành vi tự do và nhưng không của người nhận.
Cho nên Thiên
Chúa cũng nhận những thụ tạo có lý trí làm con mình cách nhưng không, hoặc thông
ban ân sủng cho họ cách nhưng không, để họ trở thành những con thừa nhận, những
nghĩa tử.
2. Đạo lý Giáo
hội. - Giáo hội đã luận phi nhiều mệnh đề của M.Baius Quesnell, của CĐ Pistoie
(Phái Jansemisme (Toscan) họp công đồng dưới sự chủ tọa của Gm. Scipion Ricci, đề
nghị một số cải cách) và của những nhà Duy Tân chủ trương rằng ân sủng là điều
con người có quyền đòi hỏi hay yêu sách.
3. Lẽ Thần học
: -1o) Nhận con nuôi, tức là thu nhận một ngoại nhân làm thành viên
trong một gia đình, ban cho người ấy quyền hưởng phần gia tài, được phân chia vào
một ngày nào đó - là hành vi tự do và nhưng không.
Vậy nhờ ân sủng,
phàm nhân được trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa.
Cho nên ân sủng
thiết lập nghĩa tử, thu nhận chúng ta làm thành viên trong gia đình của Thiên
Chúa, là công hiệu của hành vi tự do và nhưng không của Thiên Chúa, vượt trổi
trên mọi yêu sách của bản tính tự nhiên của vật thụ tạo.
2o)
Không ai có quyền sở hữu trên những của cải thuộc sở hữu của người khác, cũng
không có thể yêu sách cho được những của vượt trổi trên bản tính của mình.
Mà thông phần
bản tính Thiên Chúa, thị kiến thanh nhàn, vui hưởng chính hạnh phúc của Người,
là những điều thiện sở hữu riêng biệt của Thiên Chúa và siêu nhiên, vượt trổi
trên những quyền lợi và yêu sách của phàm nhân.
Cho nên ân sủng
giúp phàm nhân được thông phần bản tính Thiên Chúa, được thị kiến thanh nhàn...
thì siêu nhiên, vượt trổi trên mọi công trạng và mọi yêu sách của bản tính tự
nhiên.
Luận đề X
(LXVI) : Ơn thường tại - theo yếu tính - là sự thông dự vào bản tính Thiên Chúa
; là sự thông dự thể lý, đích thực, nhưng loại suy.
Chứng minh : là sự thông
dự vào bản tính Thiên Chúa.
1. Thánh Kinh
: "Chính Thánh Linh chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con
cái Thiên Chúa"(Rm 8,16) ; "Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường
nào : người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa ; mà thực sự chúng
ta là con Thiên Chúa" (1 Ga 3,1).
Mà con cái là
những người nhờ sinh thành mà nhận được bản tính của thân phụ.
Việc làm con này không
do sự cư ngụ của Chúa Thánh Thần, Đấng chỉ chứng thực và bảo đảm việc làm của
chúng ta. Những kiểu nói : "Chính Chúa Thánh Linh cùng với thần trí chứng
thực rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa" (Rm 8,16). "Để chứng thực
anh em là con cái, Thiên Chúa đã cử Thần linh của Con Mình đến ngự trong lòng
anh em và kêu lên : Abba, Cha ơi" (Gl 4,6). Thánh Phaolô gọi thực tại này
là tinh thần nghĩa tử, như tương phản với tinh thần nô lệ (Rm 8,15), và thánh
Gioan gọi là ‘mầm sống của Thiên Chúa’ (1Ga 3,9) - là những kiểu nói không thể áp
dụng vào Chúa Thánh Linh, vì nhắc đến một thực tại (mô thể) thụ tạo siêu nhiên
làm cho chúng ta thành con cái Thiên Chúa.
Vì thế, nếu
quả người công giáo chính là con cái Thiên Chúa thì hẳn là nhờ sự sinh thành
thiêng liêng mà họ nhận được bản tính Thiên Chúa. Thành thử chỉ là thông dự bản
tính ấy thôi.
Cho nên ơn thường
tại là sự thông dự bản tính Thiên Chúa.
2. Đạo lý Giáo
Hội.- 1o) CĐC Trentô dạy rằng nhờ sự công chính hóa, tội nhân trở thành
con cái yêu dấu của Thiên Chúa ; được chuyển sang tình trạng ân sủng và nghĩa tử.
2o)
Thánh Pio V Giáo Hoàng, khi luận phi chủ trương của Baiô, đã dạy rằng, sự công
chính hóa hệ tại thường sủng được phú vào linh hồn, nhờ đó phàm nhân trở thành
dưỡng tử của Thiên Chúa, được tái sinh bên trong và thông phần bản tính Thiên
Chúa, chứ không hệ tại giữ trọn giới răn mà thôi. Trong thông điệp Divinum
illud, Đức Leo XIII đã nói rằng : "Những người công chính được Thánh kinh
và các Giáo phụ gọi cách chính xác là được tái sinh, thụ tạo mới, thông dự bản
tính Thiên Chúa, con cái Thiên Chúa và được thần hóa" (ASS 1896,97, p.
651-652).
Trong thông điệp
Mystici Corporis, Đức Piô XII dạy rằng : Ngôi Lời đã tự hạ, mặc lấy hình nô lệ
làm cho anh em của Người về xác thịt được thông phần bản tính Thiên Chúa bằng
thánh sủng ở đời này và bằng phúc thanh nhàn ở đời sau" (ASS 1943, p.
214).
3. Các thánh
Giáo phụ.- Thánh Lêo Cả đã khích lệ các kitô hữu : "Giờ đây bạn đã được thông
phần bản tính Thiên Chúa, đừng để mình bị thoái hóa qua việc trở lại và lối sống
bất xứng dĩ vãng" ; theo thánh Cyrillo thành Jésusalem : người nhờ thánh sủng
thông dự Thiên Chúa, như thanh sắt nung thông phần lửa hồng. Thánh Athanasiô nói
: "Sở dĩ Con Thiên Chúa trở thành con phàm nhân, là để những con phàm nhân,
nghĩa là con của Ađam trở thành những con Thiên Chúa". Thánh Augustin viết
: "Thiên Chúa đã hứa cho phàm nhân được Thiên Chúa tính, cho kẻ phải chết được
ơn bất tử, cho tội nhân được công chính hóa, cho kẻ hèn mọn được vinh
quang" (In Ps,. 109, 1-3 ; CCL 40, 1601-1603) ; theo thánh Gioan Kim Khẩu,
Con và Con thật Thiên Chúa đã khứng nghe (người ta gọi) là con vua Đavit, để làm
cho bạn trở nên Con Thiên Chúa.
4. Lẽ thần học.-
1o) Theo đạo lý được Thánh kinh và các Giáo phụ nhắc đi nhắc lại cho
chúng ta, nhờ ân sủng con người được tái sinh thiêng liêng trong đời sống thần
linh, được làm nghĩa tử của Thiên Chúa và được chung hưởng vinh quang với Người.
Nhưng không
ai có thể được Thiên Chúa cho tái sinh và làm nghĩa tử đích thực của Người, cùng
chung hưởng vinh quang với Người, nếu không có bản tính Thiên Chúa.
Được sinh ra, được làm
con, được thừa kế ngầm hiểu là có cũng một bản tính như vị sinh thành, là thân
phụ, là sở hữu chủ gia tài.
Cho nên nhờ ân
sủng, con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.
2o)
Các nhân đức siêu nhiên và phú bẩm, vì lẽ là những nhân đức siêu nhiên, phải giả
định là một bản tính cao trọng tương ứng với các nhân đức ấy và với cứu cánh siêu
nhiên.
Nhân đức là phẩm tính
luôn luôn ngầm hiểu một bản tính mà nó phẩm định. Các nhân đức tự nhiên hay tập
luyện giả định bản tính của con người có lý trí, mà chúng kiện toàn trong lãnh
vực mục đích tự nhiên, phù hợp với bản tính ấy. Vậy các nhân đức siêu nhiên, kiện
toàn con người cách cao cả và trong lãnh vực mục đích siêu việt. Nên phải giả định
một bản tính siêu nhiên.
Mà bản tính
siêu nhiên đây chính là bản tính Thiên Chúa được người công chính thông dự (chứ
không phải là cái gì khác).
Cho nên nhờ ân
sủng con người được thông dự bản tính Thiên Chúa.
3o)
Các nhân đức thần hướng khuynh hướng con người về cứu cánh siêu nhiên ; các nhân
đức luân lý huy động con người hoạt động vì cứu cánh ấy.
Khuynh hướng cũng như
hoạt động chiều về một đối tượng tương ứng. Cho nên để có thể nói tới cứu cánh
siêu nhiên, các nhân đức cũng phải siêu nhiên.
Nhưng mọi
khuynh hướng đều phát xuất từ một bản tính ; thành thử khuynh hướng siêu nhiên
ngầm hiểu một bản tính siêu nhiên.
Cho nên để với
tới cứu cánh siêu nhiên, bản tính con người phải được cất nhắc lên ngang tầm cứu
cánh ấy.
Sự cất nhắc này
thể hiện bằng ân sủng, làm ta thông dự bản tính Thiên Chúa.
Cho nên nhờ ơn
thường tại con người được thông dự bản tính Thiên Chúa.
B. Thông dự
thể lý, đích thị, nhưng loại suy.
Bản tính Thiên
Chúa là một thực tại thể lý, vậy khi ân sủng làm cho phàm nhân được thông dự vào
bản tính Thiên Chúa thì sự thông dự ấy là thông dự thể lý. Cũng là một sự thông
dự đích thị hay là thông dự mô thể, vì ân sủng chính là nguyên nhân của các hành
vi siêu nhiên là hành vi theo mô thể, cho nên sự thông dự các bản tính Thiên Chúa
là một sự thông dự theo mô thể.
Nhưng chỉ là
thứ thông dự loại suy, vì giữa Thiên Chúa và tạo vật chỉ có thể có phù hợp tương
tự, loại suy chứ không thể có sự tương hợp nào khác.
Ýï niệm nhất
quán về ơn thánh hóa. - Để có một cái nhìn tổng hợp chúng ta hay
so sánh :
A. Hữu thể siêu nhiên theo yếu tính
1. Bản tính Thiên Chúa : Hữu thể lập hữu hay do yếu tính - là căn nguyên
thứ nhất và cội rễ của mọi sự có nơi Thiên Chúa - là căn nguyên xa của mọi hoạt
động và của mọi phát xuất nơi Thiên Chúa.
|
B. Hữu thể siêu nhiên do thông dự
1. Thánh sủng : là căn nguyên đệ nhất và cội rễ của các nhân đức tự nhiên
phú bẩm, và căn nguyên xa (principium quo radicale) - của mọi sinh hoạt siêu
nhiên nơi chính nhân.
|
|
2. Căn nguyên gần của mọi sinh hoạt và phát xuất : tài năng trực tiếp hoạt
động : trí tuệ và ý muốn.
|
2. Các nhân đức phú bẩm : nhân đức thần hướng, ánh vinh quang, đức tin, đức
ái, các nhân đức luân lý, khôn ngoan, công bình.
|
|
3. Hoạt động nội cố của Thiên Chúa hay sự sống của Thiên Chúa trong hiện
thể đệ nhị : sự hiểu biết và ưa thích của Thiên Chúa.
|
3. Hành vi siêu nhiên của các nhân đức phú bẩm, thứ nhất là các nhân đức
thần hướng, và thứ đến là các nhân đức luân lý.
|
|
4. Hạnh phúc của Thiên Chúa : Thiên Chúa quán triệt yếu tính của mình và
vui thỏa sự tốt lành vô cùng của mình.
|
4. Hạnh phúc của Thiên Chúa mà chính nhân thông dự hệ tại nhận biết và yêu
mến Thiên Chúa cách siêu nhiên. Thông dự cách vị toàn ở trần gian, và hoàn bị
bằng thị kiến thanh nhàn trên nơi vĩnh hằng.
|
|
5. Nhiệm xuất và sự phong nhiêu của Thiên Chúa : Chúa Cha nhiệm sinh Ngôi
Lời qua sự hiểu biết ; Chúa Cha và (Chúa Con) Ngôi Lời nhiệm xuy Chúa Thánh
Thần qua tình yêu.
|
5. Thông dự theo mô thể những nhiệm xuất của Thiên Chúa : con người được
thần hóa bởi ân sủng, nhận biết Thiên Chúa cách siêu nhiên và phát sinh ra tâm
từ siêu nhiên, là hình ảnh Thiên Chúa. Do người được thần hóa và do tâm từ phát
xuất ra tình yêu thần linh, có chung hạn nội cố trong ý muốn.
|
Hệ luận.- Những công
hiệu của thánh sủng.
1.- Công hiệu
thứ nhất và căn bản làm cho phàm nhân thông dự bản tính Thiên Chúa. (2Pr. 1, 4)
2.- Làm cho
phàm nhân thành nghĩa tử của Thiên Chúa, với quyền thừa hưởng gia nghiệp của Người.
Nghĩa tử trong lãnh vực siêu nhiên nầy mang một ý nghĩa thực tiễn hơn lĩnh vực
nhân loại rất nhiều.
3.- Cung cấp
cho chính nhân đời sống siêu nhiên hoàn bị, vì ân sủng là căn nguyên và cội rễ
của các nhân đức phú bẩm,,, cho nên cùng với ân sủng, chính nhân được Thiên Chúa
phú cho mọi nhân đức siêu nhiên là những nguyên nhân trực tiếp hoạt động. Tội
nhân có đức tin và đức cậy "vô hồn" (fides et spes informes), chỉ có
một chút sự sống Thiên Chúa. Nhưng thánh sủng, mầm sống của mọi nhân đức, làm
cho chúng ta thông dự hoàn bị sự sống của Thiên Chúa.
4,- Làm cho
người đã lĩnh nhận ơn nghĩa đắc sủng với Thiên Chúa và đáng hưởng sự sống vĩnh
cửu. (Rm. 8,17).
5.- Làm cho
phàm nhân thành bạn hữu của Thiên Chúa. Căn bản của tình bạn là đức ái. Nhưng tình
bằng hữu vẫn luôn luôn xây dựng trên sự chung đụng của cải, và tình bằng hữu siêu
nhiên của phàm nhân với Thiên Chúa hệ tại thông dự bản tính Thiên Chúa. Như thế
ân sủng, theo thực chất, thiết lập nền tảng của tình bằng hữu siêu nhiên.
6.- Thánh sủng
là căn nguyên, cội rễ vì sao Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trong linh hồn ta như trong
đền thờ của Người (Ga. 14, 23), vì là cội rễ phát các nhân đức. Thực vậy, Chúa
Ba Ngôi ngự trong linh hồn ta như đối tượng được ta nhận biết và yêu mến, như
thế là qua trung gian của các nhân đức ; đàng khác ân sủng không phải là căn
nguyên trực tiếp hoạt động, mà hoạt động qua các nhân đức...
7.- Ân sủng làm
cho linh hồn được mỹ miều, kiều diễm, siêu nhiên, rạng ngời ánh sáng.
8.- Ân sủng xóa
bỏ tội lỗi, vì công chính hóa và làm cho phàm nhân đắc sủng với Thiên Chúa. Nhưng
phàm nhân không thể đắc sủng với Thiên Chúa, nếu không sạch mọi tội lỗi.
Tiết II : Bản
tính của ơn hiện tại
Như khi bàn về
ơn thường tại, chúng ta có thể xét về ơn hiện tại theo hai phương diện : hữu thể
thụ tạo và mô thể siêu nhiên.
§ I. Yếu tính
của ơn hiện tại xét theo
hữu thể thụ tạo.
Ý kiến.- Có nhiều ý
kiến liên can đến vấn đề này : Thuyết Jansenio, P. Quesnel đồng hóa ơn hiện tại
với chính hoạt động hay ý muốn của Thiên Chúa. Thuyết này đã bị Giáo Hội luận
phi (D.S. 1360 - 1361 / 1240 - 2411).
Molina đồng hóa
ơn hiện tại với hành vi chưa kịp suy của trí khôn và ý muốn. Các đồ đệ của thánh
Thomas cho rằng ơn hiện tại là điều thụ tạo nào đó, khác với tác động tạo thành
của Thiên Chúa, và được tiếp nhận vào những tài năng trực tiếp hoạt động tiếp
nhận làm thành căn nguyên của những hành vi sống động của con người, kể cả hành
vi chưa kịp suy, là một sự khởi động. Vì thế, có trước hoạt động của con người
và thực sự khác với hoạt động ấy.
Vậy ơn hiện tại
là gì ? Phải chăng là sự khởi động nào đó của linh hồn ?
Hai cách hiểu
sự khởi động nào đó của linh hồn (Motus quidam animae) :
1. Sự khởi động
có lúc được hiểu là một hành vi khiếm khuyết, vị toàn ; có lúc ám chỉ một hành
vi hoàn bị như là hành vi sống động của con người : cảm giác, hiểu biết, yêu mến.
Những nhà thần
học theo thuyết Molina hiểu theo nghĩa thứ hai. Những đồ đệ của thánh Toma lại
hiểu theo nghĩa thứ nhất : một sự khởi động của linh hồn nhận được (motus
receptus), chứ không như một sự tự khởi động hay khởi động trực giác (motus
elicitus).
2. Để hiểu điều
trên đây chúng ta nên lưu ý : cũìng một chuyển động thì vừa là hành vi của biến
căn (actus motoris), vừa là hành vi của vật khả biến (actus mobilis) ; bởi vì cũng
một thực tại của chuyển động mà một phía là biến căn chủ động thực hiện huy động,
một phía là vật khả biến hoàn toàn bị động đón nhận sự chuyển động do biến căn
thông cho, chứ vật khả biến không thể tự khởi động được.
3. Cũng thế, Thiên
Chúa thực hiện khởi động linh hồn (ta gọi đó là ơn hiện tại) và linh hồn có được
hành động là nhờ chính sự khởi động ấy của Thiên Chúa, linh hồn chỉ là khả năng
thụ động đón nhận ơn hiện tại.
4. Theo thánh
Tomas, sở dĩ ơn hiện tại không tự thể (per se) và trực tiếp thuộc về một phạm
trù nào, vì là một chuyển động, là hữu thể vị toàn, đang hình thành theo lối
khuynh hướng, chứ không phải là hữu thể hoàn chỉnh.
Ơn hiện tại
hiểu là chủ động (activa) xét như là điều phát xuất từ Thiên Chúa thông cho vật
thụ tạo ; và hiểu là thụ động (passiva) xét như là điều mà vật thụ tạo lĩnh nhận
từ Thiên Chúa.
Luận đề XI : Ơn
hiện tại : A. Tự thể, trực tiếp, và sát nghĩa không phải là một phẩm tính ; B.
nhưng có thể qui kết vào một phẩm tính ; C. đúng ra là một sự khởi động thông
ban cho linh hồn
(Luận đề trình
bày ý kiến của Thánh Toma).
Hiển nhiên ơn hiện tại
là một hữu thể thuộc phạm trù phụ thể, nhưng là phụ thể nào ?
Đó là điều cần
được giải đáp.
Chứng minh.- A. Ơn hiện tại,
tự thể, trực tiếp không phải là phẩm tính sát nghĩa.
Nếu quả là một
phẩm tính thì ơn hiện tại có thể là hoàn bị, thường tại và khả kham.
Nhưng những
phẩm tính ấy ngầm hiểu là một hữu thể hoàn chỉnh, hay ít ra là bền vững.
Mà ơn hiện tại
lại là thực tại lâm thời, uyển chuyển theo yếu tính : là một trợ lực, một sự khởi
động.
Cho nên ơn hiện
tại tự nó không thể là một phẩm tính sát nghĩa.
B. Nhưng được
qui vào một phẩm tính.
1. Dù ơn hiện
tại không phải là một phẩm tính, nhưng phát sinh những công hiệu riêng mang thể
thức thuộc phạm trù phẩm tính, vì ở đâu thiếu tập quán siêu nhiên, thì ơn hiện
tại cung cấp cho các tài năng nhờ những nghị lực thuộc lãnh vực thần linh và siêu
nhiên, để thực hiện những hành vi thực thụ là siêu nhiên. Lúc đó, ơn hiện tại được
gọi là ơn cất nhắc. Cho nên ơn hiện tại được qui kết vào một phẩm tính.
2. Những thực
tại bất toàn được thẩm định theo mục tiêu (terminus) mà chúng hướng tới, vì thế
mục tiêu của những thực tại ấy thuộc phạm trù nào thì chúng cũng được qui kết vào
phạm trù ấy. Mà ơn hiện tại thì hướng tới ơn thường tại, như chỗ hoàn chỉnh tự
nhiên, nên có thể qui kết vào phạm trù của ơn thường tại, tức là phẩm tính.
C. Đúng ra ơn
hiện tại là một khởi động được thông ban cho linh hồn.
1. Những hành
vi sinh động chưa kịp suy của trí khôn và ý muốn mà Molina cho là ơn hiện tại -
là những hành vi siêu nhiên thực sự. Những hành vi ấy phải là phát xuất từ tài
năng của linh hồn như căn nguyên. Nhưng những tài năng của linh hồn nhiều khi
thiếu tập quán siêu nhiên - không thể là căn nguyên trực tiếp của những hành vi
ấy. Trong trường hợp này, phải công nhận là, tài năng của linh hồn phải nhận được
ơn hiện tại cất nhắc trước, để đủ nghị lực khả dĩ phát sinh những hành vi siêu
nhiên thực sự.
2. Không có bản
tính nào - vật thể hay thiêng liêng - dù hoàn thiện đến đâu, có thể bước sang hành
động, nếu không được Thiên Chúa khởi động trước. Như thế sự khởi động của Thiên
Chúa rất cần thiết để vật thụ tạo có thể bước sang hành động, hay để áp dụng tài
năng vào hành động.
Cho nên ơn hiện
tại là một thực tại siêu nhiên lâm thời, được trực tiếp nhận vào những tài năng
của linh hồn nhiều khi để cất nhắc và tăng cường chúng, nhưng luôn luôn để áp dụng
chúng vào hành động.
§ I. Về yếu tính
của ơn hiện tại
xét theo mô
thể thiêng liêng
Đặt vấn đề.- Khi bàn
chung về ân sủng, thánh Toma đã cho là "điều siêu nhiên trong con
người phát xuất từ Thiên Chúa". Khi đề cập đến ơn hiện tại, thánh Toma gọi
là "sự trợ giúp nhưng không của Thiên Chúa" hay là "thành
quả của ý muốn nhưng không của Thiên Chúa" hoặc là "chính công hiệu
nhưng không nơi con người". Tiếng nhưng không của Thiên Chúa dẫn chúng
ta tìm hiểu tính cách siêu nhiên của ơn hiện tại.
Luận đề XII
(LXX).- Ơn hiện tại là thực tại siêu nhiên theo thực chất và mô thể.
Chứng minh.- 1. Đạo lý của
Giáo hội. Giáo hội đã dạy rằng, ơn hiện tại là tiềm năng thông dự (participatio
vir-tualis) bản tính của Thiên Chúa, vì có mục đích chuẩn bị chúng ta lĩnh nhận
ơn thánh hóa ; bảo tồn và tăng thêm ân sủng đã lĩnh nhận. Như thế ơn hiện tại là
mầm mống sẽ trổ sinh ơn thường tại : vì là sự khởi động, là sự hình thành của một
thực tại hiện thể hay là hiện thực của ơn thường tại. Mà ơn thường tại là phẩm
tính siêu nhiên, như đã chứng minh trên đây. Cho nên ...
2. Lẽ thần học
. 1o) Ơn hiện tại trực tiếp hướng về việc phát sinh những hành vi siêu
nhiên theo mô thể. Mà căn nguyên không thể kém hơn công hiệu. Cho nên ơn hiện tại
là một thực tại siêu nhiên theo mô thể (=siêu nhiên thực sự).
2o)
Ơn hiện tại khác với ơn thường tại như hành vi với tập quán. Mà ơn hiện tại làm
cho ta thông dự thiết thực vào nghị lực thần linh.
Thông dự cách nội tại
(ad intra) nghị lực thần linh để hiểu biết, yêu mến, khi hiện sủng là ơn cất nhắc
sức hiểu biết và yêu mến. Thông dự cách ngoại tại (ad extra) nghị lực thần linh
hay là toàn năng, vì áp dụng tài năng đã được cất nhắc vào công việc.
Nhưng thông dự
thần linh như thế là thông dự thực tại siêu nhiên theo yếu tính. Và thông dự như
thế là thông dự cách thiết thực theo mô thể.
Cho nên ơn hiện
tại là thực tại siêu nhiên theo mô thể.
Hệ luận.- 1. Nhờ ơn
hiện tại, ta thông dự nghị lực thần linh cách lâm thời, do đó những nghị lực của
chúng ta được thuần hóa cách khiếm khuyết, hay hoàn bị. Khiếm khuyết nếu ơn hiện
tại chỉ phát sinh đôi ba việc, như khi tội nhân chuẩn bị hồi tâm sám hối ; hoàn
bị, nếu phát sinh tất cả mọi hành vi, như nơi người đã được công chính hóa.
2. Ơn hiện tại
có hai chức năng là cất nhắc và áp dụng.
1o)
Chức năng áp dụng luôn luôn được thể hiện, trước cũng như sau việc công chính hóa,
bất luận các tài năng của ta đã có những tập quán siêu nhiên hay không.
2o)
Còn về chức năng cất nhắc thì :
a) Đối với tài
năng chưa có tập quán siêu nhiên, ơn hiện tại cất nhắc :
-1. Vì tính cách
siêu nhiên của hành vi mà tài năng ấy phát sinh.
-2. Vì hành
vi phải thể hiện là đơn thuần và hoàn bị hơn tập quán.
-3. Vì sự hiện
hữu của hành vi.
b) Đối với tài
năng đã có tập quán siêu nhiên thì ơn hiện tại chỉ cất nhắc vì hai lý do -2. và
-3.
Chương III
ÂN SỦNG CÓ THỰC
SỰ
KHÁC VỚI NHÂN
ĐỨC KHÔNG ?
Đặt vấn đề.- Ân sủng là
thực tại siêu nhiên. Các nhân đức tập luyện là thực tại tự nhiên. Đàng khác, các
nhân đức luân lý phú bẩm thì rõ ràng là khác với ân sủng, vì là những nhân đức
thấp kém hơn các nhân đức thần hướng. Do đó không có vấn đề phải đặt ra.
Trong các nhân
đức thần hướng, thì đức tin và đức cậy cũng khác với ơn thánh sủng, vì tội nhân
vẫn có thể có hai nhân đức ấy mà không có ơn thánh sủng.
Như thế vấn đề
được đặt ra với đức mến, vì không ai phủ nhận được : ở đâu có đức mến thì ở đó
có ơn thánh hóa.
Ý kiến.- 1. Một số
nhà thần học cho rằng ân sủng theo cơ bản thì đồng nhất với đức mến, có khác
nhau là khác nhau về danh từ và về chức năng. Cũng một thực tại duy nhất như là
điều làm cho Thiên Chúa hài lòng về ta, thì gọi là ân sủng ; còn như là căn
nguyên của tình yêu Thiên Chúa thì gọi là thánh sủng. Đó là ý kiến của Phêrô
Lombardo. Durandus, Henry Gandavensis, chân phước Scotus, thánh Bellarmino,
Estius, Tournely và một vài vị khác.
2. Đa số các
nhà thần học cho rằng ân sủng thực sự khác với đức mến.
1o)
Alexander Hales và Thánh Bonaventura dù chủ trương sự khác biệt thực định, nhưng
là khác biệt không tương ứng và tùy thể (disctintio inadaequata et
accidentalis), như sự khác biệt giữa con dao và sắt hay kim loại để đúc dao.
2o)
Thánh Toma và các môn đệ của người chủ trương sự khác biệt thực sự và tương ứng.
Thánh Alberto, Phêrô Tarantasia và đa số các nhà thần học theo ý kiến này.
Luận đề XIII
(LXXI) - Ơn thánh hóa và đức mến thì khác nhau thực sự và tương ứng như tập quán
này với tập quán kia.
Chứng minh : 1.- Thánh
kinh. Nguồn Mặc khải không minh thị dạy về điều này, nhưng chúng ta có thể tìm
thấy những chỉ dẫn sau : "Cầu chúc toàn thể anh em được tràn đầy ân sủng
(gratia) của Chúa Giêsu Kitô đầy tình thương (caritas) của Thiên Chúa và ơn thông
hiệp của Thánh Thần Amen" (2 Cr 13,13). "Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng
ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng (gratia), cùng với đức tin và đức mến
(dilec-tione) của một kẻ được kết hợp với Người" (1 Tm 1,14) ; "Nguyện
xin Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em bình an và
lòng mến (caritas) cùng với lòng tin. Xin Thiên Chúa ban ân sủng (gratia) cho tất
cả những ai yêu mến Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (Ep 6, 23 - 24). Trong
những trích dẫn ấy tiếng ân sủng và đức ái hay lòng mến được liệt kê như những điều
khác nhau.
2. Đạo lý của
Giáo hội .- Công đồng Trident. dạy : sự công chính hóa được thể hiện nhờ ân sủng
và các hồng ân (gratia et dona), nhờ ân sủng và đức ái (gratia et caritas). Dĩ
nhiên Công đồng không có ý giải quyết vấn đề mà các nhà thần học còn đang tranh
luận. Công đồng Vienne công nhận là cái nhiên (probabilis) ý kiến cho rằng, việc
công chính hóa các trẻ em trong bí tích Rửa tội thể hiện bằng cách ban ơn thánh
hóa và các nhân đức (virtutes et informans gratia).
Sách giáo lý
Roma dạy : Cùng với ân sủng và để tháp tùng ân sủng, là cả một lô những nhân đức
cao trọng.
3. Lẽ thần học.-
1. Nhờ ơn công chính hóa và thánh sủng của phép Rửa tội, những trẻ nhỏ được tẩy
sạch khỏi tội tổ truyền. Mà tội tổ truyền, vì là tội của bản tính, chế ngựû
trong yếu tính của linh hồn. Cho nên thánh sủng phải được nhận vào yếu tính của
linh hồn, để tẩy rửa nó khỏi tội tổ truyền, thánh hóa và cất nhắc nó lên bậc siêu
nhiên.
Nhưng đức ái được
nhận vào ý muốn, như thế là có chủ thể khác nhau. Cho nên công chính hóa hay thánh
sủng và đức ái thực sự khác nhau.
2o)
Đức ái, vì là nhân đức để chuẩn bị chủ thể hoạt động cho phù hợp với bản tính.
Nhưng bản tính mà đức ái ngầm hiểu như điều khả dĩ được nó hoàn chỉnh và kiện
toàn phải là bản tính siêu nhiên, hay là một sự thông dự bản tính Thiên Chúa
trong linh hồn.
Chương IV
CHỦ THỂ RIÊNG
BIỆT VÀ TRỰC TIẾP CỦA ÂN SỦNG PHẢI CHĂNG LÀ YẾU TÍNH CỦA LINH HỒN ?
Lý do của vấn
đề.- Vấn đề này liên hệ mật thiết với vấn đề trên và lệ thuộc vào vấn đề đó.
Những nhà thần học cho ân sủng đồng nhất với đức ái, tất nhiên phải cho chủ thể
của ân sủng là ý muốn. Nhưng, như đã chứng minh, ân sủng khác với đức ái và các
nhân đức, nên chủ thể của ân sủng không thể là những tài năng của con người. Vậy
chủ thể riêng biệt của ơn thánh hóa hay thánh sủng là gì ?
Luận đề XVI
(LXXII).- Chủ thể riêng biệt và trực tiếp của ơn thánh sủng là chính yếu tính của
linh hồn.
Chứng minh.- 1. Thánh sủng
là một phụ thể, nên đòi hỏi phải có một chủ thể. Chủ thể xa của mọi phụ thể luôn
luôn là bản thể ; nhưng bản thể không luôn luôn là chủ thể gần của mọi phụ thể.
Chẳng hạn, tập quán
hoạt động được thu nhận trực tiếp vào tài năng, và chỉ được thu nhận gián tiếp
vào bản thể.
Vậy vì ân sủng
thực sự khác biệt với các nhân đức cách tương ứng, nên chủ thể của thánh sủng
không thể là những tài năng của linh hồn.
Cho nên chủ
thể riêng biệt và trực tiếp của thánh sủng phải là yếu tính của linh hồn.
2. Thánh sủng
là sự thông dự bản tính Thiên Chúa hay hữu thể thần linh.
Mà bản tính
Thiên Chúa hay hữu thể thần linh chỉ có thể đón nhận vào yếu tính của linh hồn,
như vào chủ thể riêng.
Cho nên chủ
thể riêng biệt và trực tiếp của ân sủng là chính yếu tính của linh hồn.
3. Thánh sủng
còn là căn nguyên mô thể của tử hệ thần linh và của sự tái sinh thiêng liêng của
chúng ta.
Mà sự sinh sản
ưu tiên và tự thể thành tựu nơi bản tính, chứ không phải nơi tài năng của người
được sinh ra.
Chính hữu thể hay bản
tính tự nhiên của con người đạt được hữu thể hay bản tính mới ; không ai được gọi
là con vì cơ thể hoạt động như cha, mà vì có cùng một bản tính như cha.
Cho nên chủ
thể riêng biệt và trực tiếp của thánh sủng là chính yếu tính của linh hồn.
4. Thánh sủng
thanh tẩy con người khỏi tội tổ truyền mà tội này chủ trì trong yếu tính linh hồn,
cho nên thánh sủng cũng phải có chủ thể riêng biệt là chính yếu tính của linh hồn.
Như thế khả năng
mà ta cần phải công nhận nơi linh hồn, để đón nhận ân sủng không phải là khả năng
tự nhiên, mà là khả năng tuân phục (potentia obedientialis).
Những đặc tính
của thánh sủng
1o)
Thánh sủng là căn nguyên phát sinh các nhân đức siêu nhiên vì :
a.- Bản tính
của Thiên Chúa như là nguồn gốc của mọi ưu phẩm của Người. Như vậy giữa bản tính
(hay yếu tính) của Thiên Chúa với các ưu phẩm của Người có một tương quan thực
sự (relation réelle). Thánh sủng là sự thông dự vào bản tính Thiên Chúa, với những
đặc trưng của nó cũng có một tương quan như là tương quan luận lý (hay là lý định).
Vậy như từ yếu
tính của Thiên Chúa phát xuất các ưu phẩm của Người, thì cũng từ thánh sủng phát
xuất các nhận đức siêu nhiên.
Cho nên, thánh
sủng là căn nguyên phát xuất các nhân đức siêu nhiên.
b.- Vả lại ân
sủng và các nhân đức, khi được thu nhận vào linh hồn, thì thích ứng với các hữu
thể của linh hồn.
Phạm vi siêu nhiên thụ
tạo và phụ thể cũng tương tự như phạm vi như nhiên.
Mà linh hồn là
căn nguyên của các tài năng hoạt động. Cho nên thánh sủng là căn nguyên phát xuất
các nhân đức.
2.- Thánh sủng
chỉ là một loại duy nhất, nhưng có nhiều dị biệt phụ.
1o)
Một loại duy nhất.- Thánh sủng là sự thông dự bản tính Thiên Chúa mà theo tính
cách thì sự thông dự này chỉ có một cách duy nhất.
Những đặc trưng
của thánh sủng như ánh vinh quang và đức ái thì đồng loại vì đối tượng của ánh
vinh quang là yếu tính Thiên Chúa được chiêm ngưỡng nhãn tiền ; còn đối tượng của
đức ái cũng chính là Thiên Chúa như cứu cánh siêu nhiên được yêu mến hết lòng.
2o)
Nhưng có điều dị biệt phụ, vì thánh sủng là một phụ thể được đón nhận vào chủ
thể, nên phải thích ứng với chủ thể ; là một phẩm tính, nên có thể gia tăng và
phát triển. Thánh sủng trong những người hoàn thiện, của các thánh thì hoàn hảo
hơn của những người mới tiến tới trong đời sống tâm linh.
ĐOẠN III
SỰ PHÂN BIỆT
CÁC ÂN SỦNG
Ân sủng duy
chỉ có một loại như ta đã thấy trước này. Sự phân biệt ở đây chỉ xét theo cách
Thiên Chúa ban cho con người, hoặc xét theo công hiệu của ân sủng tác động trên
con người. Chúng ta sẽ tìm hiểu trong các chương sau đây.
Chương I
ÂN SỦNG ĐƯỢC
PHÂN BIỆT
THÀNH ƠN THÁNH
SỦNG VÀ ƠN ĐOÀN SỦNG.
1. Ơn Thánh sủng
(thánh hóa : gratia sanctificans) trực tiếp nhằm làm cho con người lĩnh nhận được
nên thánh. Trái lại ơn đoàn sủng (charisma : ơn ban nhưng không) nhằm làm cho
con người lĩnh nhận thánh hóa kẻ khác.
2. Người còn
mắc tội không thể có ơn thánh sủng, nhưng có thể được ban ơn đoàn sủng.
3. Ơn thánh sủng
nhằm vào những hành vi bên trong và bên ngoài ; còn ơn đoàn sủng đặc biệt nhằm
vào những hành vi bên ngoài.
Luận đề XV
(LXXII). Thực sự có ơn thánh sủng và ơn đoàn sủng.
Chứng minh.- 1. Thánh
kinh.- Sau khi liệt kê những đoàn sủng khác nhau - hay những ơn ban nhưng không
- Thánh Phaolô viết tiếp : "Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em, con đường trổi
vượt hơn cả ... Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư ? Cũng chỉ nhất
thời. Nói các tiếng lạ chăng ? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư ? Rồi cũng chẳng
còn... Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn
cả là đức mến" (1 Cr 12, 31 ; 13, 8. 13). Trong những lời đó Thánh Phaolô
phân biệt hai con đường trọn lành : con đường của những đoàn sủng - nhờ ơn ban
nhưng không - được ban để mưu công ích (1 Cr 12,7) và một ngày kia sẽ không còn
và con đường của nhân đức tin, cậy, mến, hướng vào sự thánh hóa bản thân mỗi người.
2. Lẽ thần học.-
Mục đích riêng biệt của ân sủng là qui hướng con người về cùng Thiên Chúa được
thực hiện theo những định luật của sự an bài của Thiên Chúa.
Trong sự an bài
cũng như trong sự bảo toàn vạn vật, Thiên Chúa dùng thụ tạo cộng tác với Người.
Như thế ân sủng Thiên Chúa ban cho con người ta có hai thứ : một thứ làm cho
con người trực tiếp liên kết với Thiên Chúa ; còn thứ nữa chỉ giúp con người cộng
tác trong việc hướng tha nhân về với Thiên Chúa.
Ơn thứ nhất gọi
là thánh sủng (gratia sanctificans) nhờ đó con người được nên công chính, được
kết hợp với Thiên Chúa, hay ít ra được chẩn bị - nhờ ơn hiện tại - để được công
chính hóa. Ơn thứ hai gọi là đoàn sủng (Charisma) được ban để con người cộng tác
vào việc công chính hóa tha nhân : được cung cấp vì công ích.
Với những điều
kiện trên ta dễ nhận thấy ơn thánh hóa gồm cả ơn thường tại (gratia habitualis)
và ơn hiện tại (gratia actualis).
Chương II
ƠN THÁNH SỦNG
ĐƯỢC PHÂN BIỆT
THÀNH ƠN HOẠT
ĐỘNG VÀ ƠN CỘNG TÁC.
Thánh Tôma áp
dụng lối phân biệt này vào cả hai thứ : ơn hiện tại và ơn thường tại .
TIẾT I : ƠN
HIỆN TẠI HOẠT ĐỘNG VÀ CỘNG TÁC.
Định nghĩa.- Ơn hiện tại
hoạt động là khi chỉ có một căn nguyên duy nhất phát sinh một công hiệu, như
trong một hành vi tự do, chỉ có ơn Chúa khởi động mà không có tự do ý chí của
con người.
Còn ơn hiện tại
cộng tác là khi ơn Chúa khởi động và có tự do ý chí của thụ tạo có lý trí (con
người, thiên thần) tham gia trong một công hiệu.
Nguyên lý nhân
quả. Một công hiệu luôn luôn được qui cho căn nguyên chủ động (motor) chứ không
qui cho vật thụ động (mobilis). Như vậy, khi ân sủng của Thiên Chúa như căn
nguyên chủ động, còn tự do ý chí như là căn nguyên thụ động của công hiệu được
phát sinh, thì công hiệu ấy được gán cho Thiên Chúa và ta có ơn hiện tại hoạt động.
Còn khi ân sủng của Thiên Chúa như căn nguyên chủ động, có sự tham gia của sự tự
do của con người để phát sinh cũng một công hiệu được qui cho cả hai căn nguyên
: đây là ơn hiện tại cộng tác.
Luận đề XVI
(LXXIV). Phải công nhận là có ơn hiện tại hoạt động và ơn hiện tại cộng tác.
Chứng minh.- Một công
hiệu luôn được qui về căn nguyên khởi động, mà không qui cho vật thụ động. Vậy
trong công việc mà tâm trí của ta phát sinh do Thiên Chúa huy động, chứ không tự
huy động ; trong trường hợp này ân sủng được gọi là ơn hoạt động. Nhưng trong công
việc mà tâm trí ta vừa là vật thụ biến vừa là chủ căn thì công việc ấy không những
được qui cho Thiên Chúa lại cho cả tâm trí ta nữa. Trong trường hợp này ân sủng
được gọi là ơn hiện tại cộng tác.
Như vậy chúng
ta có hai thứ hành vi : a) Khi ân sủng huy động để ý muốn có hành vi (hành vi này
gọi là hành vi bên trong, như khi nói về trước đây đã ưa muốn điều ác, nay bắt đầu
muốn điều thiện) : trường hợp này ân sủng được gọi là ơn hoạt động.
b) Nhưng khi ý
muốn đã khởi sự một hành vi, và ân sủng Chúa củng cố ý muốn để hành vi được hoàn
thành (hành vi này gọi là hành vi bên ngoài) : trường hợp này ân sủng được gọi
là ơn cộng tác.
Do đó phải công
nhận có cả ơn hiện tại hoạt động và ơn hiện tại cộng tác.
Nguyên lý để
phân biệt. Để biết khi nào là ơn hoạt động, khi nào là ơn cộng tác,
ta phân biệt hai thứ hành vi của ý muốn : hành vi bên ngoài và hành vi bên
trong. Hành vi bên trong là hành vi trực phát của ý muốn. Ơn hoạt động tác động
vào hành vi bên trong này. Hành vi bên ngoài là sự thừa lệnh hành vi của ý muốn,
bao hàm tất cả các hành vi theo sau mệnh lệnh. Ơn cộng tác tác động vào hành vi
này.
(Xem thêm giáo
trình, mục a và b trang 181).
(Gratia
operans còn gọi là proeveniens, antecedens, excitans)
Tiết II. Về ơn
thường tại hoạt động và cộng tác
Luận đề XVII
(LXXV). Phải công nhận có ơn thường tại hoạt động và cộng tác.
Chứng minh. Ơn thường tại
là một mô thể được nhận vào linh hồn, và, như mô thể, sinh ra hai công hiệu : hữu
thể và hoạt động.
Thực vậy, công hiệu đầu
tiên của một mô thể là làm cho chủ thể đón nhận nó là thế này, thế nọ, rồi mới
hướng nó vào hoạt động, ví dụ : nhiệt tố, như căn nguyên mô thể, trước hết và
trên hết là phẩm định một vật, làm cho vật đó hóa nóng, cho nó trở thành hữu thể
mới ; thứ đến mới qui hướng nó vào hoạt động, hay làm cho nó có thể thực hiện hành
vi.
Ơn thường tại
cũng có hai công hiệu đó : công hiệu tiên quyết và căn bản là cung cấp hữu thể
thần linh cho linh hồn, như công chính hóa và đặc sủng hóa = ơn thường tại hoạt
động (gratia habitualis operans) ; thứ đến là nguyên lý chủ động thực hiện hành
vi có công trạng, cũng phát xuất từ sự tự do ý chí của ta = ơn thường tại cộng
tác (gratia habitualis cooperans).
Cho nên phải
công nhận có ơn thường tại hoạt động và cộng tác.
Vai trò của
linh hồn trong mỗi ơn. a) Về hữu thể thần linh, ân sủng là căn nguyên
mô thể duy nhất ; linh hồn chỉ là tài năng thụ động tuân nhận (Potentia passiva
oboedientialis)
b) Về hành vi
có công trạng, ân sủng và ý muốn cộng tác cách chủ động để phát sinh. Chúng ta
dễ nhận ra sự tương đồng giữa ơn hoạt động và ơn cộng tác trong hai thứ ơn hiện
tại và ơn thường tại
Trong ơn thường
tại cũng như trong ơn hiện tại, ơn hoạt động luôn luôn nhằm vào điều chủ yếu và
căn bản, còn ơn cộng tác nhằm vào điều thứ yếu và tùy tòng.
Trong ơn thường
tại cũng như trong ơn hiện tại, ơn hoạt động luôn luôn là chủ căn duy nhất ; còn
ơn cộng tác luôn luôn có hai căn nguyên : ân sủng là nguyên nhân và ý muốn tự
do là chủ căn thụ biến.
Theo thánh
Toma, ơn hoạt động và ơn cộng tác là một ân sủng hay là một thực tại duy nhất với
hai chức năng, hay là hai công hiệu, nghĩa là khi thực hiện chức năng nầy thì gọi
là ơn hoạt động, khi thực hiện chức năng kia thì gọi là ơn cộng tác.
Chương III
SỰ TÁI PHÂN CỦA
ƠN ĐOÀN SỦNG
I. Phân chia
các ơn đoàn sủng. Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Corinthô, đoạn 12 câu
8-10, Thánh Phaolô đã liệt kê các đặc sủng như thế này :
Nhận biết chân lý thần linh
|
1. Lời khôn ngoan
2. Lời hiểu biết
3. Đức tin
|
Củng cố chân lý thần linh
|
4. Ơn chữa bệnh
5. Làm phép lạ
6. Tiên tri tiên liệu
7. Biện phân các tâm hồn
|
Trình bày chân lý thần linh
|
8. Biết các ngôn ngữ
9. Giải thích các ngôn ngữ
|
II. Những điều
kiện để giải thích chân lý thần linh
Thánh Toma đã
giải thích cách thánh Phaolô phân chia như thế này :
Mục đích riêng
của ơn đoàn sủng là hướng dẫn tha nhân về với Thiên Chúa. Nhưng vì phàm nhân không
thể họat động trực tiếp vào tâm trí tha nhân, nên cần phải nhờ đến sự khuyến dụ
bên ngoài. Biện pháp khuyến dụ này nhất thiết đòi hỏi ba điều kiện dưới đây :
1. Nhận biết
chắc chắn và khúc chiết những chân lý thần linh mà ta phải dạy dỗ.
2. Chứng minh
những chân lý ấy. Nhưng vì bàn về những chân lý siêu nhiên mà ta không thể viện
vào những lý chứng tự nhiên, nên cần phải củng cố các chân lý ấy bằng những sự
kiện siêu nhiên, thần linh, bảo đảm cho chân lý tuyệt đối.
3. Cũng cần
phải có tài năng và kỹ năng riêng, để trình bày những chân lý thần linh.
III. Hệ thống
hóa các ơn đoàn sủng
Căn cứ vào ba
điều kiện ấy, thánh Toma đã xếp đặt các đặc sủng của thánh Phaolô như sau :
A. Nhận biết đầy
đủ :
a) Các nguyên
lý đức tin,
b) Các kết luận
:
1. Chính yếu
: điều thần linh - lời thông minh.
2. Thứ yếu : điều
phàm trần - ngôn ngữ
- khoa học
B. Tài năng
trình bày chân lý thần linh
a) Về ngôn ngữ
bên ngoài : Ơn biết tiếng lạ
b) Về nội
dung ý nghĩa : Ơn giải thích tiếng lạ
C. Cũng cố chân
lý thần linh bằng sự :
a) Bằng quyền
toàn năng Thiên Chúa
Do sự cao cả
- ơn làm phép lạ
do cả hồng ân
- ơn chữa bệnh
b) Bằng sự thông
minh vô cùng của Thiên Chúa
Dự kiến tương
lai - ơn ngôn sứ
Thấu suốt tâm
can - ơn biện phân tâm hồn.
Sự phân chia
trên đây đại để theo những lẽ xứng hợp, thích đáng.
Lại ở đây
"Đức tin" không có ý chỉ nhân đức thần hướng (nghĩa là chấp nhận những
chân lý Chúa mặc khải) mà có ý chỉ sự chắc chắn khác thường của những chân lý
thần linh. Nhờ đó con người có khả năng dạy dỗ tha nhân về những chân lý ấy.
Thông minh và
khoa học, xét như những ơn đoàn sủng ám chỉ sự thông thái và kiến thức dồi dào,
nhờ đó, con người chẵng những hiểu đúng về những chân lý thần linh, lại còn có
thể dạy dỗ và bảo vệ những chân lý ấy, phi bác những lý lẽ phản ngược.
IV. Hệ luận. Ơn thánh hóa
thì quí giá hơn ơn đoàn sủng.
Chúng ta phải
công nhận rằng : ơn thánh hóa thì quí giá và trác tuyệt hơn những ơn đoàn sủng.
Trước hết thánh Phaolô đã minh bạch xác định điều đó, vì sau khi liệt kê các ơn
đoàn sủng, người viết tiếp : "Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường
trổi vượt hơn (1 Cr 12, 31). Rồi người nói đến đức tin, cậy, mến, nhất là đức mến
(1Cr 13, 1-13).
Lý trí cũng
cho ta thấy như thế. Nhân đức nào càng qui hướng chúng ta về mục đích cao cả và
quí trọng hơn càng là nhân đức quí giá và trác tuyệt.
Quả vậy, mục đích
nguyên là cao trọng hơn phương tiện và trong các mục đích, mục đích trực tiếp là
phương tiện để đạt tới cứu cánh. Mà mục đích của ơn thánh là trực tiếp phối hiệp
chúng ta với cứu cánh là Thiên Chúa ; còn mục đích của ơn đoàn sủng là chuẩn bị
cho con người được sẵn sàng thực hiện việc phối hiệp ấy.
Do đó, ơn đoàn
sủng thì hướng về ơn thánh hóa như phương tiện hướng về mục đích. Vì thế, phải
nói rằng ơn thánh hóa thì quí trọng và trác tuyệt hơn cả ơn đoàn sủng.
Chhương IV
CÁCH PHÂN
CHIA THÔNG DỤNG
Sau thời thánh
Tôma, thần học còn chia ân sủng thành : ơn khích lệ (excitans), ơn hộ giúp
(adjuvans), ơn đầy đủ (sufficiens) và ơn hiệu nghiệm (efficax). Ở đây, chúng ta
chỉ bàn đến ơn đầy đủ và ơn hiệu nghiệm.
Ơn khích lệ và
ơn hộ giúp không khác xa ơn hoạt động và ơn cộng tác.
Tiết I. Những
vấn đề tín lý về ơn đầy đủ
Khái niệm.- Ơn đầy đủ là ơn
ban nghị lực, khả năng để hành động. Mọi ơn hiệu nghiệm đều hàm chứa ơn đầy đủ,
vì kẻ ban sự thực hiện thì cũng ban khả năng để thực hiện, "de facto ad
potentiam valet consequentia". Không ai hoài nghi về sự ơn đầy đủ được hàm
chứa trong ơn hiệu nghiệm. Nhưng người Thệ phản và Jansenio phủ nhận điều nầy và
tách biệt hai ơn đầy đủ và ơn hiệu nghiệm.
Luận đề XVIII
(LXXIX) : Trong bậc được cứu chuộc hiện nay, thực sự có ơn trợ giúp của
Thiên Chúa, là ơn đầy đủ, ơn ban cho con người khả năng hoạt động lành mạnh để đạt
tới phúc trường sinh.
Chứng minh. 1. Thánh
kinh. "Suốt ngày Ta đưa tay kêu gọi một dân ngỗ nghịch, bọn người theo ý
riêng mà đi trong đường tà" (Is. 65,2) ; " Khốn cho ngươi hỡi
Corozaim ! Khốn cho ngươi hỡi Bethsaida ! vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi
mà được làm tại Tyr và Sidon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro trên đầu và tỏ
lòng sám hối" (Mt. 11,21); "Hỡi những người cứng đầu, cứng cổ, lòng và
tai không cắt bì, các ông luôn chống lại Thánh Thần. Cha ông các ông thế nào thì
các ông cũng vậy." (Cv. 7,51); " Vì được cộng tác với Thiên Chúa, chúng
tôi khuyên nhủ anh em : anh em đã lĩnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng trở
nên vô hiệu" (2Cr. 6,1); "Anh em đừng dập tắt Thánh Linh"
(1Thes. 5,19; Xc Kh.3,20).
2. Đạo lý của
Giáo hội. Công đồng Orange II đã ấn định là sau khi đã nhận được ơn thánh tẩy,
mọi tín hữu nếu muốn trung thành hành động, thì nhờ Chúa Giêsu trợ giúp và cộng
tác, có thể và phải giữ trọn mọi điều giúp rỗi linh hồn. Công đồng Valentin III
dạy : "Những người gian ác hư đi, không phải vì không thể, mà vì không muốn
trở nên tốt lành". CĐC Laterano IV dạy rằng, nếu ai, sau khi chịu phép rửa
tội, ngã phạm tội nào, vẫn luôn luôn có thể nhờ sự chân thành sám hối mà sửa lại
; CĐC Trident. đã ấn dịnh rằng : "Những giới răn của Thiên Chúa không phải
là những điều mà người công chính không thể giữ, vì Thiên Chúa không truyền những
điều bất thể". Sau hết, Giáo hội đã luận phi nhiều chủ trương của Baii,
Jansenii, Quesnel và của Công đồng Pistoie, cho rằng người công chính không thể
giữ những giới răn của Thiên Chúa ; hoặc cho rằng không có ơn đầy đủ.
3. Lẽ thần học.
1o) Thiên Chúa trung thành muốn cho mọi người được cứu độ. Mà ai
trung thành muốn đạt tới đích thì cũng phải đưa ra những phương tiện cần thiết.
Vì thế nếu Thiên Chúa trung thành muốn cho mọi người được cứu độ, Người cũng phải
ban cho mọi người những phương tiện siêu nhiên cần thiết để họ được cứu độ. Cho
nên mọi người phải có những phương tiện vừa đủ dù trong thực tế không phải mọi
người được cứu độ. Do đó có những ơn vừa đủ thật, dù chỉ là vừa đủ suông.
2o)
Việc tuân giữ giới răn là điều tuyệt đối cần thiết để được cứu độ. Nhưng con người
không thể giữ các giới răn nếu không có ân sủng. Vậy việc Thiên Chúa truyền cho
con người phải giữ trọn giới răn ngầm hiểu là Người ban những phương tiện hay
những nghị lực cần thiết để giữ. Nhưng trong thực tế không phải mọi người tuân
giữ. Cho nên có những ơn vừa đủ thật, nhưng chỉ là vừa đủ suông.
Hệ luận.- 1. Thiên Chúa
ban cho mọi người những trợ giúp cần thiết và đầy đủ, nhưng không bằng nhau.
Ban vừa đủ và ban bằng nhau là hai điều khác nhau. Thiên Chúa ban ơn trợ giúp cần
thiết và vừa đủ cho mọi người để được hối cải và được rỗi. Nhưng có kẻ, Người
ban từng bước, nếu không ngăn trở, Người sẽ ban tiếp ; có kẻ Người ban trực tiếp
để được hối cải và được cứu độ. Người xử trí như sở hữu tuyệt đối những hồng ân
của mình.
2. Thiên Chúa
ban những trợ giúp ấy có thể trong những trường hợp sau :
a) Khi con người
đến tuổi khôn.
b) Khi con người
buộc chu toàn một điều răn siêu nhiên.
c) khi con người
đương đầu với chước cám dỗ nặng nề.
d) khi con người
ở trong tình trạng nguy tử. Ngoài những trường hợp có phần chắc ấy, Thiên Chúa
vẫn ban vào lúc, tại nơi và cách thức Người muốn.
Tiết II. Những
vấn đề tín lý đối với ơn hiệu nghiệm
Sẽ có hai vấn
đề : thực hữu của ơn hiệu nghiệm và đặc trưng của ơn hiệu nghiệm.
§ 1. Thực hữu
của ơn hiệu nghiệm
Khái niệm. Ơn hiệu nghiệm
(gratia efficax) là ơn cùng với khả năng, ban cho ta thực sự hoạt động. Thông
thường, tiếng hiệu nghiệm có thể chỉ tính cách một năng lực, hoặc chỉ việc thực
thi một công việc, có khi chỉ kết quả của công việc. Ví dụ, nói thuốc hiệu nghiệm
là chỉ thuốc có hoạt lực cao, hoặc thuốc làm giảm bệnh. Trong thần học ơn hiệu
nghiệm được hiểu là ơn làm cho hoạt động thực sự. Nhưng một căn nguyên có thể
phát sinh công hiệu hai cách : cách hữu nghiệm và cách vô nghiệm. Phát sinh vô
nghiệm là khi hành động có thể bị ngăn trở, và do đó không sinh công hiệu. Phát
sinh hữu nghiệm là khi hành động không bị cản trở. Những điều trên đây cũng xảy
ra với ơn hiện tại khi thực sự hoạt động, nghĩa là có thể bị cản trở hoặc không
bị cản trở.
Quan niệm đầy
đủ về ơn hiệu nghiệm hàm súc hai điều : phát sinh hành vi, và phát sinh một cách
hữu nghiệm.
Luận đề XIX (LXXXI) :
Với ơn hiệu nghiệm, Thiên Chúa phát sinh trong ta những hoạt động siêu nhiên.
Chứng minh.
1. Thánh Kinh. "Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động
của anh em do lòng yêu thương của Người " (Pl. 2,13); "Lạy Đức Chúa,
Ngài cho chúng con được an cư lạc nghiệp, vì hết mọi việc chúng con làm đều do
Ngài thực hiện cho chúng con"(Is.26,12); "Chẳng ai đến với Tôi được,
nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai Tôi không lôi kéo người ấy" (Ga. 6,44);
"Thiên Chúa là nguồn mạch bình an..... Xin Thiên Chúa ban cho anh em mọi ơn
lành để có sức thi hành thánh ý Người. Xin Người thực hiện nơi anh em điều đẹp
lòng Người" (Dt.13,20-21); "Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn
chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người"(1Cr. 12,6).
2. Huấn quyền
của Giáo hội. CĐ Orenge cũng như Trident. đều xác định rằng Thiên Chúa là căn
nguyên mọi tư tưởng lành thánh, mọi cảm tình tốt lành và mọi công trình mang ơn
cứu độ, mà con người thực hiện để sống đời đời.
3. Lẽ thần học.
Khi hoạt động siêu nhiên, hoặc đã được trang bị những tập quán siêu nhiên, hoặc
còn thiếu những tập quán ấy. Nếu còn thiếu thì cần phải được huy động bởi ơn khởi
động của Thiên Chúa, là ơn cất nhắc tài năng, ban cho nó khả năng (posse) và áp
dụng nó vào hoạt động. Nếu đã có tập quán siêu nhiên, lúc đó cần ơn khởi động áp
dụng nó vào hoạt động. Đây là huy động tiền ứng (proemotio) trong phạm vi siêu
nhiên.
§ II. Những đặc
trưng của ơn hiệu nghiệm
1. Ơn hiệu
nghiệm hữu hiệu không cản trở hoạt động của chúng ta, lại còn là căn nguyên của
hoạt động ấy nữa. Đây là điều CĐC Trident. đã dạy, khi phi bác lạc thuyết của
Luther và Calvin. Những hành vi thực hiện dưới ảnh hưởng của ơn hiệu nghiệm hữu
hiệu là những hành vi sống động, nên phải được phát xuất từ sinh vật; và có công
trạng, nên nhất thiết phải ngầm hiểu sự tự do.
2. Ơn hiệu
nghiệm hữu hiệu không thủ tiêu sự tự do mà còn phát sinh, tăng cường và bảo tồn.
Luther, Calvin chủ trương rằng do ơn hiệu nghiệm hữu hiệu, Thiên Chúa cưỡng bức
ý muốn một cách thể lý, như vậy là tiêu diệt sự tự do ; Jansenio thì cho rằng dưới
ảnh hưởng của ơn hiệu nghiệm, ý muốn vẫn tự do nhưng bị câu thúc cách luân lý
do sự hoan lạc lớn lao chế ngự. Lạc thuyết nầy cũng đã bị CĐC Trident luận phi.
Các hành vi thể hiện dưới ảnh hưởng của ơn hiệu nghiệm là hành vi có công trạng
đáng thưởng đời sau. Mà công trạng ngầm hiểu sự tự do không bị cưỡng bức, mà cả
sự tự do không lệ thuộc một thứ tất yếu nào.
3. Ơn hiệu
nghiệm hữu hiệu không tiêu diệt khả năng chống cự, là khả năng vẫn luôn tồn tại
nơi ý muốn đã được ân sủng huy động. Đây là đạo lý được Giáo hội khẳng định
trong CĐC Trident và Vaticano II. Khả năng chống cự nầy hàm chứa trong sự tự
do. Nếu chống cự thực sự thì lập tức không còn phải là ơn hiệu nghiệm hữu hiệu.
4. Ơn hiệu
nghiệm hữu hiệu công chính hóa và ơn bền độ cho đến cùng, được ban cho mọi người
được tiền định và chỉ ban cho những người ấy. Ơn hiệu nghiệm công chính hóa mà
thôi cũng được ban cho nhiều người không được tiền định, dù không phải cho mọi
người, vì có nhiều người không bao giờ được công chính hóa. Lý do thứ nhất là vì
con người không luôn luôn hưởng ứng ơn vừa đủ.
Đoạn IV
NGUYÊN NHÂN CỦA
ÂN SỦNG
Sau khi bàn đến
chính ân sủng theo nội căn là chất thể và mô thể, bây giờ bàn đến ngoại căn cùng
những yếu tố bên ngoài, rồi đến những công hiệu của ân sủng.
Chương I
CĂN NGUYÊN TÁC
THÀNH CỦA ÂN SỦNG.
Tiết I. Căn
nguyên thể lý chính của ân sủng.
Luận đề XX (LXXXIV) :
Chỉ một mình Thiên Chúa là căn nguyên thể lý chính của ân sủng.
Chứng minh.- 1. Thánh
Kinh : "Thật, tôi bảo thật các ông : không ai có thể vào nước Thiên Chúa nếu
không sinh ra bởi nước và Thánh Thần" (1 Ga 3,5) ;"...anh em hãy xem,
Chúa Cha yêu quí chúng ta dường nào : người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là
con Thiên Chúa - mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa" (1 Ga 3,1).
"Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ
Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết
Thiên Chúa" (1Ga 4,7) "Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng
chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5);"Còn những
ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ trở nên Con
Thiên Chúa. Họ được sinh ra không phải do khí huyết, cũng không phải do ước muốn
của nhục thể, hoặc do ước muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa" (Ga 1,
12-13).
2. Đạo lý của
Hội Thánh : CĐC Trident đã trịnh trọng dạy rằng, tác căn của ân sủng là "lòng
thương xót của Thiên Chúa, đã tẩy rửa và thánh hóa chúng ta cách nhưng không, đóng
ấn và xức dầu cho chúng ta bằng Thánh Thần Người đã hứa, là bảo đảm quyền thừa
kế cho chúng ta. (D.S.799 /1529, trang 135, c1).
3. Lẽ thần học.
1o) Tiên thiên : a) Về chính đặc ân của ân sủng.- Ân
sủng, như đã nói ở trên, là thông dự bản tính Thiên Chúa dù chỉ là loại suy. Nhưng
ngoài Thiên Chúa ra thì không ai có thể cung cấp sự thông dự bản tính Thiên Chúa
cho tạo vật của Người.
b) Về phía mục
đích của ân sủng.- Mục đích bản nhiên của ân sủng là hạnh phúc vĩnh cửu, tức là
hưởng nhan Thiên Chúa. Vậy ân sủng được ban cho linh hồn là để hướng dẫn linh hồn
đến hạnh phúc ấy. Vậy mà chỉ có người làm chủ sở hữu những điều thiện của mình,
mới có thể hướng người khác đến điều thiện ấy. Mà Thiên Chúa là Chủ và là Chúa
tể hạnh phúc riêng của mình.
c) Về phía chủ
thể đón nhận ân sủng.- Chủ thể riêng đón nhận ân sủng, là yết tính của linh hồn.
Nhưng chỉ có Thiên Chúa mới có thể hoạt động trong yếu tính của linh hồn. Nên
chỉ một mình Thiên Chúa là căn nguyên chính của ân sủng.
2o)
Hậu nghiệm : Do những công hiệu khác nhau.
a) Công hiệu
chủ yếu mà ân sủng thông cho phàm nhân là thần hóa nó. Vậy ngoài Thiên Chúa không
ai có thể thần hóa ai cả.
b) Công hiêu
thứ hai của ân sủng là làm cho người lĩnh nhận trở thành dưỡng tử. Nhưng chỉ có
nghĩa phụ mới làm cho một người trở thành dưỡng tử.
c) Nhờ ân sủng
và cùng với ân sủng - Chúa Thánh Thần, như là căn nguyên mô thể, được ban cho
chúng ta cùng với ân sủng. Nhưng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban Chúa Thánh
Thần.
Tiết II. Căn
nguyên luân lý chính của ân sủng.
Căn nguyên luân
lý chính, hay căn nguyên lập công trạng chính là Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên
Chúa Cha ; Người đã dùng cuộc khổ nạn và cái chết của mình mà lập công thánh hóa
cùng đền bù Chúa Cha thay cho chúng ta.
Chúa Giêsu đã
thực hiện căn nguyên luân lý này bốn cách : lập công, đền bù, hy tế và cứu chuộc.
Tiết III. Dụng
căn của ân sủng.
Có hai dụng căn
: dụng căn đệ nhất và cơ bản là bản tính nhân loại của Chúa Giêsu ; dụng căn thứ
yếu là các nhiệm tích.
Bản tính nhân
loại của Chúa Giêsu là dụng cụ gắn liền với bản tính Thiên Chúa ; trái lại các
nhiệm tích là những dụng căn rời. Nhận được sức mạnh bởi cuộc tử nạn của Chúa
Giêsu.
Chương II
VỀ CĂN NGUYÊN
CHUẨN BỊ CỦA ÂN SỦNG.
Tiết I. Những
thứ chuẩn bị.
Thánh Toma đã
cẩn thận phân biệt hai thứ : chuẩn bị xa và chuẩn bị gần (cũng gọi là vị toàn và
hoàn bị).
I - Những đặc
tính của việc chuẩn bị bị xa (vị toàn)
1o)
Có trước sự công chính hóa, đôi khi không đạt tới sự công chính hóa do khuyết điểm
của phàm nhân,
2o)
Không phải là công trạng đáng được công chính hóa chẳng kỳ là công xứng đáng
(condigno) hay công xứng hợp (de congruo) theo nghĩa thực danh mà chỉ là công
trạng theo nghĩa rộng như lời cầu xin.
3o)
Không phải chớp nhoáng, nhưng tuần tự.
4o)
Không tuyệt đối cần thiết, vì đôi khi có sự công chính hóa mà không có sự chuẩn
bị này.
5o)
Không phát sinh do ơn hiện tại.
II. Những đặc
trưng của việc chuẩn bị gần (hoàn bị).
1o)
Xảy ra đồng thời với sự công chính hóa và thuộc về chính bản thể của sự công chính
hóa.
2o)
Có công trạng không phải để được ân sủng, vì ân sủng đã có trong linh hồn, nhưng
để được vinh quang, và đây là công trạng xứng đáng.
3o)
Không phải là tuần tự mà ngay lập tức
4o)
Tuyệt đối cần thiết nơi những người đến tuổi khôn để được công chính hóa.
5o)
Phát xuất từ ơn thường tại, đã có trong linh hồn, như từ gốc rễ.
III. Những hành
vi hợp thành việc chuẩn bị xa hay gần.
CĐC Trentô
(D.S. 798/1528) Còn nói đến những hành vi sau đây cũng là việc chuẩn bị xa hoặc
gần.
1o)
Hành vi tin tưởng, nhờ đó những người đã đến tuổi khôn chấp nhận tất cả những
chân lý đã được Thiên Chúa mặc khải và phán hứa, nhất là việc Thiên Chúa công
chính hóa kẻ gian ác và tội lỗi bằng ân sủng của Đấng Cứu Chuộc.
2o)
Hành vi kính sợ, giúp ta kinh hãi trước sự nghiêm minh của Thiên Chúa công bình
và trước vô vàn tội lỗi nặng nề của ta.
3o)
Hành vi hy vọng, nhờ đó tội nhân cảm thấy phấn khởi và mạnh dạn hy vọng vào lòng
thương xót vô biên của Thiên Chúa sẽ tha thứ cho, vì công nghiệp Con Một của Người
là Đức Giêsu Kitô.
4o)
Hành vi yêu mến sơ khởi (chưa phải là hành vi của đức ái) nhờ đó tội nhân bắt đầu
yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự công chính và thánh thiện.
5o)
Hành vi thống hối không trọn, nhờ đó tội nhân gớm ghét và ghê tởm mọi tiền khiên,
quyết chí đổi mới và lĩnh nhận bí tích Rửa Tội hay Giải Tội.
Trong các hành
vi trên, chỉ có hành vi thứ nhất thuộc lý trí, còn các hành vi khác thuộc ý muốn.
IV. Hai hành
vi riêng biệt : Đức ái và thống hối trọn
Đức ái và thống
hối cách trọn là hai hành vi riêng biệt và đặc trưng của việc chuẩn bị gần.
Đối với người
đến tuổi không, để được công chính hóa bằng bí tích Rửa tội hay Giải tội, thì
chỉ cần và đủ có sự chuẩn bị xa. Nhưng để được công chính hóa ngoài bí tích thì
tuyệt đối phải có đức ái và thống hối cách trọn.
Trong lúc công
chính hóa một tội nhân, luôn luôn có cách chắc chắn, minh nhiên hoặc mặc nhiên,
những hành vi của đức tin, đức cậy, đức ái và của thống hối cách trọn.
Những hành vi
đó là công hiệu của ơn hoạt động.
Thường thường
Thiên Chúa chuẩn bị lần đầu cho việc công chính hóa từ xa đến gần. Nhưng đôi lúc
Thiên Chúa cũng chuẩn bị cho tội nhân một cách hoàn bị và dứt khoát, như trường
hợp thánh nữ Magdalenna và thánh Phaolô tông đồ.
Tiết II. Sự cần
thiết của việc chuẩn bị để lĩnh ân sủng
Đối với ơn hiện
tại, không thể có sự chuẩn bị nào cả. Nên đây chỉ nói đến sự cần thiết của việc
chuẩn bị để lĩnh nhận ơn thường tại.
Luận đề XXI (LXXXVI) : Để
lĩnh nhận ơn thánh (ơn thường tại), cần thiết có sự chuẩn bị.
Giáo phái Luther và
Calvin không công nhận có sự cần thiết của bất cứ sự chuẩn bị nào, cho sự công
chính hóa. Tất cả mọi việc phàm nhân làm trước sự công chính hóa đều là tội, và
người ta càng cố gắng càng lỗi phạm. Trong sự công chính hóa, phàm nhân phải hoàn
toàn thụ động như dụng cụ vô hồn.
Chứng minh.- Ơn thường
tại là một mô thể siêu nhiên. Vậy, vì là mô thể, ơn thường tại đòi hỏi chủ thể đón
nhận phải chuẩn bị trước hầu có đủ điều kiện xứng hợp với mô thể (tức là ân sủng).
Vì là siêu nhiên, mọi thứ chuẩn bị (xa hay gần) nhất thiết phải là siêu nhiên.
Luận đề XXII
(LXXXVII) : Với người đã đến tuổi khôn, sự chuẩn bị để đón nhận ơn thánh
hệ tại những hành vi siêu nhiên họ thực hiện để chuẩn bị cho sự công chính hóa.
Chứng minh.- 1. Thánh
Kinh. "Nào muôn dân khắp cõi địa cầu, hãy hướng về Ta, thì các ngươi sẽ được
cứu độ" (Js 45,22) ; "Trở về đi, hỡi lũ con phản bội, Ta sẽ chữa lành
tội phản bội của các ngươi" (Gr 3,22) ; "Vì thế hỡi nhà Israel, Ta sẽ
xét xử các ngươi : ai nấy theo đường lối của mình - sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa
Thượng. Hãy trở lại, hãy từ bỏ mọi tội phản nghịch của các ngươi, chẳng còn chướng
ngại nào làm các ngươi phạm tội nữa... Hãy tạo cho mình một trái tim mới. Hỡi
nhà Israel, tại sao các ngươi lại muốn chết ? Quả thật, Ta không vui thích về cái
chết của kẻ phải chết - Sấm ngôn của Đúc Chúa là Chúa Thượng - Vậy hãy trở lại
và hãy sống" (Ed 18, 30-32) ; "Hãy trở lại với Ta, và Ta sẽ trở lại với
các ngươi, Đức Chúa các đạo binh phán" (Dcr 1,3 xc Ml 3,7) ; "Nếu anh
em hết lòng trở về với Đức Chúa thì hãy loại bỏ các thần ngoại bang và đừng để
các nữ thần Astharoth ở giữa anh em ; hãy hướng lòng anh em về với Đức Chúa và
phụng sự một mình Người, thì Người sẽ giải thoát anh em khỏi tay người
Philisthin" (1Sm 7,3) ; "Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ ! Từ chốn
tử vong, chỗi dậy đi nào ! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi !" (Ep 6,14) ;
"Hãy đến gần Thiên Chúa, Người sẽ đến gần anh em. Hỡi tội nhân, hãy rửa
tayü cho sạch ; hỡi kẻ hai lòng, hãy tẩy luyện tâm can" (Gc 4,8) ; "Vậy
phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì hãy đến với tôi" (Ga
6,45) ; "Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì
Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với
Ta" (Kh 3,20).
2. Đạo lý của
Hội Thánh.- CĐC Trident đã ấn định, chống lại giáo phái Luther và Calvin, về sự
cần thiết phải chuẩn bị cho được công chính hóa, lại cũng chỉ dẫn một số hành
vi mà tội nhân phải làm để chuẩn bị dần dần lĩnh ơn thánh hóa.
3. Lẽ thần học.-
1o) (Về phía Thiên Chúa) Thiên Chúa hoạt động nơi các vật theo cách
thức riêng của mỗi vật. Vì thế nơi con người tự do, Thiên Chúa hoạt động bằng cách
huy động con người tự do hướng về sự công chính hóa, để như vậy chính con người
là kẻ tự ý bỏ tội lỗi và liên kết với Thiên Chúa như cứu cánh đích thực của mình.
2o)
(Về phía con người được công chính hóa) Những tội nhân (đã đến tuổi khôn) do hành
vi riêng và nhân bản của ý muốn, từ bỏ Thiên Chúa mà tìm đến điều thiện tạm bợ.
Vì vậy cũng cần phải dùng hành vi riêng và nhân bản của ý muốn mà từ bỏ điều
thiện tạm bợ (hành vi sám hối) mà quay về với Thiên Chúa là cứu cánh đích thực
của mình (hành vi tin, cậy, mến)..
Nơi người lớn
(đến tuổi khôn) để lĩnh ơn công chính hóa, cần có hai thứ chuẩn bị : chuẩn bị
xa rồi đến chuẩn bị sau cùng. Đó là đường lối thông thường hay là có phối trí của
Thiên Chúa nhưng Người cũng có thể xử trí cách khác thường như trường hợp thánh
tông đồ Phaolô (trang 74). Việc chuẩn bị nầy cùng hệ tại hành vi của đức ái và
của thống hối cách trọn.
Tiết III : Bản
tính của sự chuẩn bị
Đặt vấn đề.- Việc chuẩn
bị để tiếp nhận một mô thể có thể là luân lý hay thể lý. Việc chuẩn bị luân lý
hệ tại việc cầu nguyện. Trái lại sự chuẩn bị thể lý hệ tại làm cho chủ thể hợp
với mô thể.
Công trạng không
tham gia vào việc chuẩn bị để lĩnh nhận ân sủng. Đó là điều đã được CĐC Trident
dùng quyền vô ngộ để xác định. Sự chuẩn bị để lĩnh ân sủng có gía trị như việc
thỉnh cầu đó là điều không ai tranh luận. Vậy, phải quan niệm việc chuẩn bị này
là luân lý hay thể lý.
Hai cách giải
đáp : Một số nhà thần học cho việc chuẩn bị chỉ có tính cách luân lý. Còn thánh
Toma và đa số đệ tử của người chủ trương rằng việc chuẩn bị này có cả hai tính
cách luân lý và thể lý.
Tính cách luân
lý và thể lý của việc chuẩn bị : Muốn xác nhận là việc chuẩn bị để lĩnh ân sủng
có cả hai tính cách luân lý và thể lý, chỉ cần so sánh việc chuẩn bị này với bất
cứ một việc chuẩn bị của chủ thể tự nhiên nào để nhận một mô thể như chuẩn bị cành
cây tươi để làm củi đốt.
Vả lại sự chuẩn
bị hoàn bị là do ơn thường tại tác thành đồng thời sự chuẩn bị này lại là căn
nguyên (chất thể) của ơn thường tại. Mà điều đó chỉ thể hiện trong thứ chuẩn bị
thể lý.
Sau hết chuẩn
bị thể lý là thanh tẩy chủ thể khỏi những thể thức tương phản với mô thể sẽ được
lĩnh nhận, đồng thời làm cho chủ thể thích ứng, tương hợp với tình trạng của mô
thể mới. Điều xảy ra trong việc chuẩn bị cho ân sủng cũng giống như thế. Nhờ những
hành vi ân hận, hối tiếc, đau đớn mà tâm hồn tội nhân đoạn tuyệt với những tình
cảm tội lỗi, nghịch với việc thông ban ân sủng; lại nhờ những hành vi tin, cậy,
mến tội nhân lại gần với Thiên Chúa, là Đấng thông ban ân sủng. Đây là một chuyển
biến từ chỗ dứt khoát với tội lỗi, đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Chương III
VỀ MỐI TƯƠNG
QUAN GIỮA SỰ CHUẨN BỊ
VÀ SỰ LĨNH NHẬN
ÂN SỦNG.
Vấn đề đặt ra
để tìm hiểu việc chuẩn bị có luôn luôn dẫn con người đến lĩnh nhận ân sủng một
cách hiệu nghiệm không ? Ơn hiện tại ảnh hưởng thế nào đến việc chuẩn bị ? Phải
chăng ơn hiện tại dẫn con người đến ơn thường tại hoặc là đến sự công chính hóa
một cách hiệu nghiệm.
Tiết I. Mối tương
quan giữa sự chuẩn bị và ơn thánh hóa.
Vốn sự chuẩn
bị cho ân sủng là công hiệu của hai nguyên nhân : của tự do ý chí và của ân sủng.
Cho nên phải xét vấn đề về cả hai phía,
1. Xét về phía
tự do ý chí của con người, thì không có tương quan nào giữa sự chuẩn bị và sự lĩnh
nhận ân sủng. Bởi vì việc lĩnh nhận ân sủng, hay nói đúng hơn là việc thông ban
ân sủng không hoàn toàn lệ thuộc vào sự ưng thuận của tự do ý chí; nên
việc lĩnh nhận ân sủng ấy vượt quá tầm mọi sự chuẩn bị xét như phát xuất từ tự
do ý chí
2. Còn việc
chuẩn bị cách hoàn hảo (chuẩn bị gần) bằng những hành vi bác ái và thống hối cách
trọn, thì luôn luôn dẫn đến lĩnh nhận ơn thánh cách hiệu nghiệm.
Bởi vì việc
chuẩn bị hoàn hảo như thế được thực hiện do ơn thường tại, vốn hiện hữu trong
linh hồn ; lại vì những hành vi chuẩn bị này là công hiệu của ơn hoạt động.
Thánh Kinh cũng
cho thấy mối tương quan này : "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy. Cha
Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy"
(Ga 14,23).
Hệ luận.- 1. Hiển
nhiên là sự chuẩn bị xa, tự bản tính, hướng tới sự chuẩn bị gần và trực tiếp ;
và cả hai hướng tới việc đạt được ân sủng. Việc phối trí là do Thiên Chúa nhưng
với ý muốn hữu kiện. Điều kiện là con người không đặt ngăn trở, cũng không chống
cự. Trong giả thuyết đó, Thiên Chúa sẽ đưa công việc Người đã bắt đầu đến chỗ
hoàn chỉnh, vì "Thiên Chúa không bỏ rơi ai, nếu Người không bị từ bỏ trước",
(Người sẽ hoàn tất công việc Người đã bắt đầu nếu người ta không cản trở ân sủng
của Người).
2. Nhiều khi
việc chuẩn bị xa không thành đạt là một sự kiện được kinh nghiệm kiểm chứng rõ
ràng. Sự kiện không phải vì Thiên Chúa không muốn hoàn chỉnh hay kết thúc công
việc của mình ; mà chỉ vì sự khuyết điểm, sự ngăn cản hay chống cự của con người,
như là nguyên nhân thứ nhất và duy nhất.
Nếu Thiên Chúa
đình chỉ công việc hay rút ân sủng của Người lại, thì điều đó chỉ xảy ra sau
khi phàm nhân đã đặt ngăn trở.
3. Nếu, với ý
muốn tuyệt đối và chung quyết, Thiên Chúa muốn phàm nhân mà Người huy động, đạt
được ân sủng, thì chắn chắn là người ấy sẽ đạt được ân sủng một cách hiệu nghiệm
(không sai). Vì ý muốn chung quyết của Thiên Chúa luôn luôn thành tựu cách hiệu
nghiệm. Thiên Chúa muốn với ý muốn tuyệt đối và hiệu nghiệm, khi Người hoạt động
với sự quan phòng riêng biệt hay với ơn tiền định.
Tiết II.- Tương
quan giữa các ơn hiện tại (actuale)
Việc tham gia
của nhiều ơn hiện tại nhằm mục đích phát sinh cũng một hành vi, hoặc nhiều hành
vi.
I. Để phát
sinh ra cũng một hành vi. Trong việc phát sinh cũng một hành vi luôn
luôn có sự tham gia của ơn vừa đủ (sufficiens) và ơn hiệu nghiệm (efficax). Vậy
giữa ơn vừa đủ và ơn hiệu nghiệm có tương quan gì không ? khi ban ơn vừa đủ,
Thiên Chúa có ban ơn hiệu nghiệm nữa không ? Vốn có sự tương quan giữa ơn vừa đủ
và ơn hiệu nghiệm. Khi ban ơn vừa đủ để hoạt động thì Thiên Chúa cũng dự tính
ban ơn hiệu nghiệm để có thể thực hiện; và nếu con người không cản trở, thì sẽ
nhận được ơn hiệu nghiệm. Do đó khuyết điểm hoặc ngăn trở về phía tạo vật có thể
cắt đứt mối tương quan giữa ơn vừa đủ và ơn hiệu nghiệm.
II. Để phát
sinh nhiều hành vi khác nhau. Có thể đặt hai câu hỏi : a) khi ban ơn hiệu
nghiệm cho hành vi thứ nhất, Thiên Chúa có luôn luôn ban ơn vừa đủ cho hành vi
trực tiếp theo sau không ?
b) khi ban ơn
hiệu nghiệm cho hành vi thứ nhất, Thiên Chúa có luôn luôn ban ơn hiệu nghiệm
cho hành vi trực tiếp theo sau không ?
A. Đối với câu
hỏi thứ nhất chúng ta phải trả lời khẳng định. Chẳng vậy con người không thể thực
hiện hành vi sau.
B. Đối với câu
hỏi thứ hai, ta phải trả lời : Về phía Thiên Chúa, không bao giờ Người từ chối ơn
hiệu nghiệm để thực hiện hành vi tiếp theo sau ; nhưng có thể thiếu là do lỗi của
phàm nhân, nếu họ chống cự hay đặt ngăn trở cho ơn vừa đủ nối kết giữa những phù
trợ hiệu nghiệm. Vì trong hành vi thứ nhất, Thiên Chúa đã ban ơn phù trợ hữu hiệu.
Vì trong hành vi thứ nhất Thiên Chúa đã ban ơn phù trợ vừa đủ, trong đó, Người
cũng ban sự phù trợ hữu hiệu.
Chương IV
VỀ SỰ HOÀN
THIỆN HƠN KÉM CỦA ÂN SỦNG
Sự hoàn thiện
hơn kém của một tập quán có thể phát xuất :
1/ Do đối tượng
hay mục đích của tập quán, vì lẽ tập quán này hướng đến mục đích cao cả trọng vọng
hơn của tập quán kia.
2/ Do chủ thể,
vì chủ thể này có tập quán hoàn bị hơn chủ thể kia.
Lạc thuyết.- Thuyết Bán
Pelagiô công nhận ân sủng có cấp bậc, nhưng cấp bậc đó chỉ hệ tại các vật thụ tạo
mà thôi. Sự trung thành của thụ tạo hơn kém nhau nên làm cho ân sủng hơn kém khác
nhau.
Người Tin Lành
chấp nhận cấp bậc thông dự ân sủng khác nhau; và họ cho rằng ân sủng nơi người
sống và nơi các thánh hoàn toàn giống nhau. Họ chủ trương như thế vì họ cho rằng
sự công chính nơi người lành (dưới thế) chỉ hệ tại việc gán sự công chính của
Chúa Giêsu cho họ.
Hệ luận.- 1. Ơn thường
tại không thể hoàn bị hơn kém về phía đối tượng vì ân sủng là sự thông dự bản tính
Thiên Chúa, là một bản tính đơn thuần và duy nhất. Nên ân sủng luôn luôn là một
và duy nhất về loại nơi mọi người.
2. Ơn hiện tại
có thể khác nhau về cường độ và hoàn thiện, tùy theo ý muốn của Thiên Chúa. Như
lời Thánh Phaolô : "Nhưng chính Thánh Linh duy nhất ấy làm ra tất cả những
điều ấy, và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý Người" (1Cr
12,1).
Cường độ mạnh
yếu của ơn hiện tại thứ nhất lệ thuộc cách đặc biệt vào ý muốn hoàn toàn tự do
của Thiên Chúa.
Trong những ơn
hiện tại nối tiếp ơn thứ nhất thì cường độ có thể tùy thuộc cách đặc biệt vào
Thiên Chúa ; hoặc có thể cả vào Thiên Chúa và cả vào thụ tạo. Tùy thuộc cách đặc
biệt vào Thiên Chúa khi người tác động thụ tạo bằng ơn hiệu nghiệm hữu hiệu
Tùy thuộc cả
vào Thiên Chúa cả vào thụ tạo, khi ơn hiệu nghiệm ban một cách có thể bị cản trở
do khuyết điểm hay do thiếu hưởng ứng của thụ tạo, mà cường độ hành vi đã khởi
sự bị thuyên giảm.
Nỗ lực của tạo vật không
thể có cường độ mạnh hơn ơn hiện tại đã phát sinh ra hành vi ; thụ tạo cũng không
thể làm cho việc tác động của Thiên Chúa thêm cường độ, vì tạo vật luôn luôn là
chủ căn thụ biến (causa causata, movens motum).
Luận đề XXIII
(XCIII) : Ơn thường tại của các lữ khách : A. khác nhau nơi từng người.
B. có thể và thường thường là hoàn thiện khác nhau nơi những chủ thể lĩnh nhận ơn
ấy. C. lại nơi cũng một cá nhân có thể có cường độ và hoàn thiện khác nhau.
Chứng minh.- A. Khác nhau
nơi từng người
Đạo lý của Giáo
hội dạy : "Mỗi người chúng ta nhận lĩnh vào mình sự công chính của mình".
Ơn thường tại,
vì là mô thể nội tại và gắn liền với chủ thể, tất nhiên phải bội tăng nơi các
chủ thể đón nhận ơn ấy. Đó là luật chung về sự tăng số những phụ thể.
B. Có thể và
thường là hoàn thiện khác nhau.
1. Thánh
Kinh. Trong Tin mừng ta thấy có người dược nhận năm nén, người thì hai nén, người
khác nữa chỉ có một nén tùy khả năng riêng của mỗi người. (Mt. 25,15)
2. Đạo lý của
Giáo hội. CĐC Trident. dạy : mỗi người nhận được ân sủng theo định mức của Thánh
Linh và tùy theo sự chuẩn bị và cộng tác của mỗi người.
3. Lẽ thần học.
Mô thể đưọc phú ban tương đương với sự chuẩn bị trước. Nếu sự chuẩn bị có cường
độ như nhau, thì các chủ thể được thông dự mô thể cũng một cường độ như nhau.
C. Nơi cũng một
cá nhân có thể có cường độ hoàn thiện khác nhau.
Nhờ các việc
lành ân sủng có thể tăng trưởng và phát triển trong cũng một chủ thể. CĐC
Trident. đã ấn định điều đó.
Hệ luận I.- Hai nguyên nhân
làm cho ân sủng hoàn thiện khác nhau là Thiên Chúa và tự do ý chí của thụ tạo ;
nhưng Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất, còn thụ tạo là nguyên nhân đệ nhị và là
nguyên nhân gần.
Công đồng
Trident. đã dạy điều đó khi ấn định rằng : "Mỗi người nhận đưọc ân sủng tùy
theo định mức của Thánh Thần, là Đấng phân phát cho mỗi người theo ý định của
Người , theo sự chuẩn bị và cộng tác của mỗi người.
Hệ luận II.- Ân sủng hoàn
chỉnh trong vinh quang, hay nói cách khác, vinh quang của phúc nhân : A. là những
đơn vị khác nhau (numerice distincta); B. vinh quang ấy được hoàn thiện và có cường
độ khác nhau tùy công phúc của phúc nhân đã lập khi còn tại thế ; C. nhưng nơi
mỗi phúc nhân thì luôn luôn y nguyên, không thể tăng thêm.
Công phúc là
do đức mến, vì đức mến càng cường độ thì công phúc càng lớn và vinh quang càng
cao.
Đoạn V
NHỮNG CÔNG HIỆU
CỦA ÂN SỦNG
Ơn thường tại
(tức ơn nghĩa thánh) gồm có ơn hoạt động và ơn cộng tác, vì thế có hai công hiệu
: công hiệu của ơn hoạt động là công chính hóa ; công hiệu của ơn cộng tác là lập
công (hay công trạng).
Chương I
Sự công chính
hóa tội nhân
Công chính hóa
là việc phức tạp gồm nhiều yếu tố. Chúng ta sẽ tìm hiểu từng yếu tố riêng và toàn
bộ những yếu tố kết thành sự công chính hóa.
Tiết I. Bản
chất của sự công chính hóa
I. Những ý
nghĩa của sự công chính hóa :
1. Theo từ
nguyên, chữ "justificatio" (công chính hóa) là do chữ
"justitia" có nghĩa là lẽ công bình, sự ngay thẳng đúng đắn của trật
tự. Theo một nghĩa riêng "justitia = đức công bình" là một nhân đức
luân lý và nền tảng. Nhân đức nầy làm cho ta nhận thấy lẽ phải trong sự công bình
với người khác (tư nhân, tập thể, xã hội, pháp lý).
2. Theo nghĩa
bóng, sự công chính hóa chỉ sự ngay thẳng nội tâm của con người biết xử trí đúng
đắn với bản thân, với tha nhân, với Thiên Chúa.
3. Công chính
hóa có thể hiểu nghĩa chủ động (activa) để chỉ hành vi của Thiên Chúa công chính
hóa tội nhân ; có thể hiểu nghĩa thụ động (passiva) để chỉ công hiệu của tác động
thần linh (operatio divina) biến đổi phàm nhân thành chính nhân.
II. Chủ trương
của Thệ phản. Để đối đầu với giáo phái Thệ phản cần biết rõ mấy chủ trương
của họ như sau :
1. Thệ phản đồng
hóa tội lỗi với dục vọng, nên họ cho rằng nhờ sự công chính hóa, tội lỗi không
thực sự được tẩy xóa, hay tha thứ, mà chỉ được Thiên Chúa phủ lấp, giấu kín, không
qui trách cho tội nhân.
2. Sự công chính
hóa không được thể hiện bằng sự phú ban hay du nhập một mô thể siêu nhiên nào vào
linh hồn, mà chỉ là sự gán ghép bề ngoài sự công chính của Chúa Giêsu, Đấng Cứu
chuộc chúng ta.
3. Về phía chúng
ta, để được công chính hóa, không cần gì hơn là giục lòng tin : vững vàng tin
nhận rằng sự công chính của Chúa Kitô được áp dụng cho chúng ta; nhiên hậu trước
mặt Thiên Chúa, chúng ta sẽ không bị qui trách về những tội lỗi của mình nữa. Hành
vi tin tưởng chính là diều công chính hóa tội nhân.
Luận đề XXIV (CII) : Trong
sự công chính hóa, tất cả và từng tội trọng thực sự được tha thứ và xóa bỏ.
Chứng minh. 1. Thánh
Kinh. Trong Thánh vinh 50 có những lời : "...Lạy Thiên Chúa, xin... mở lượng
hải hà xóa tội con đã phạm","Tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy",
"Xin ngảnh mặt, đừng nhìn bao tội lỗi và xóa bỏ hết mọi lỗi lầm"
(Tv.50, 3,4,11...)
2. Đây là một
chân lý đã được ấn định trong CĐC Trid. (D.S. 792/1518)
3. Lẽ thần học.
Người tội lỗi ở trong tình trạng xa lìa Thiên Chúa, người công chính là người có
ơn nghĩa thánh, được thông dự bản tính Thiên Chúa : hai tình trạng ấy tương phản
và đối lập nhau, nên không thể phối hiệp một trật trong cùng một chủ thể, vì đó
là điều phi lý. Cho nên người được công chính hóa không còn tội lỗi nữa.
Tuy xóa bỏ tất
cả những gì là tội lỗi, nhưng sự công chính hóa không xóa bỏ thói hư nết xấu.
Việc thực tập nhân đức có thể giúp ta dần dần lướt thắng các nết xấu ấy.
Tiết II. Những
yếu tố kết thành sự công chính hóa
Từ thất sủng
với Thiên Chúa đến đắc sủng, phàm nhân phải trải qua một sự biến chuyển, trong đó
có sự can thiệp của Thiên Chúa và của tự do con người. Thiên Chúa ban ơn, con
người thì đón nhận, cộng tác bằng những hành vi cụ thể.
Chúng ta sẽ tìm
hiểu :
1. Sự cần thiết
của việc ban ân sủng để tha tội ;
2. Sự cộng tác
của con người trong việc công chính hóa ;
3. Những hành
vi của đức tin, đức mến và của sự thống hối.
§ I. Sự cần
thiết của việc ban ân sủng để tha tội
Theo Calvin,
sự công chính hóa chỉ hệ tại việc tha tội, nhưng thực ra sự công chính hóa đòi
hỏi sự thành thực canh tân và biến cải con người nội tâm ; sự cải biến nầy không
thể thực hiện nếu Thiên Chúa không ban ơn. Hơn nữa không có sự tha tội đích thực
nếu không có sự thông ban ân sủng. Như thế chính sự tha tội đòi hỏi việc thông
ban ân sủng.
Luận đề XXV (CIII) : Để
được công chính hóa, sự tha thứ tội lỗi chưa đủ, cần phải canh tân toàn diện
con người nội tâm.
Chứng minh.- 1. Thánh
Kinh. "Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần trí mới vào lòng
các ngươi. Ta sẽ cất quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các
ngươi một quả tim bằng thịt. Chính Thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòngcác ngươi.
Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân chỉ các thánh quyết của Ta và đêm
ra thực hành"(Ez. 36,26-27).
Trong Tân ước
thánh Phaolô đã nhấn mạnh vào sự canh tân toàn diện con người nội tâm. Người
kitô hữu đã chết với Chúa Kitô, đã được mai táng với Người để đuợc cùng Người
phục sinh trong đời sống mới (Rm. 6,1-13) ; "Vì thế anh em hãy cởi bỏ con
người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa đảo,
anh em hãy để Thần linh đổi mới tâm trí anh em, và mặc lấy con người mới, là
con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính
và thánh thiện"(Ep. 4,22-24; 5,1-18); "...Vì anh em đã cởi bỏ con người
cũ với những hành vi của nó rồi, và anh em đã mặc lấy con người mới, con người
hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa" (Cl. 3,9-10).
2. Đạo lý của
Giáo hội. CĐC. Trid. đã dạy rằng : công chính hóa "không phải chỉ tha tội,
mà còn thánh hóa và canh tân con người nội tâm, do việc tự ý lĩnh nhận ân sủng
và các ân huệ, nhờ đó con người bất chính trở thành công chính..."
3. Lẽ thần học.
Nhờ sự công chính hóa, con người được thanh tẩy mọi tội lỗi, còn được tham dự bản
tính thần linh, được làm dưỡng tử Thiên Chúa, làm đền thờ Chúa Thánh Thần, được
thừa kế phúc hằng sống. Thánh Kinh mô tả chính nhân như thế. Nhưng hiển nhiên là
chính nhân không thể đạt được tất cả những thể thức thần linh ấy do sự tha tội
mà thôi, mà còn phải công nhận nơi chính nhân một nguyên lý tích cực nào khác nữa,
là lý do cho những hồng ân cao trọng như thế.
Đàng khác việc
công chính hóa cũng có cấp bậc cường độ. Mà việc tha tội không thể có cấp bậc,
vì mọi tội đều được tha. Cho nên việc công chính hóa không hệ tại chỉ nguyên việc
tha tội.
Luận đề XXVI (CIV) : Việc
thực sự ban ân sủng cần thiết để tha tội cũng như để canh tân và thánh hóa con
người.
Chứng minh.- 1. Thánh
Kinh. 1o) Ngôn sứ Ezechiel nói về thần trí mới (xem chứng minh Luận đề
XXV).
Tân ước dạy điều
nầy nhiều cách như thánh Phaolô viết : "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người
vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho chúng ta : đó là Người đã ban
thần trí của Người cho chúng ta"(1Ga. 4,13); "Từ nguồn sung mãn của
Người, tất cả (những người công chính) chúng ta đã nhận hết ơn nầy đến ơn khác"
(Ga. 1,16); "Cũng như cành nho tự mình không thể sinh hoa trái, nếu không
gắn liền với cây nho, anh em cũng thế..." (Ga. 15,4 ; 1Cr. 12,12-31)
2o)
Vã lại sự công chính hóa được Thánh Kinh mô tả như sự tái sinh (Rm. 6,4-11; Cl.
3,3 ; Tit. 3,4-6 ; Ga. 1,13; 3,6; 1Ga. 2,29...) như sự canh tân (2Cr. 4,16; Ep.
4,23; Cl. 3,14; Tit. 3,5); như vật thụ tạo mới (2Cr. 5,17; EP. 2,10; Gl. 6,15)
3o)
Còn ơn nghĩa thánh (ân sủng công chính hóa) lúc thì được quan niệm như sự sống
siêu nhiên và thần linh (Ga. 3,16-17 ; 5,22-24 ;10,10...), lúc thì như mầm sống
của Thiên Chúa (1Ga. 3,9); khi thì như ấn tín Thần linh (2Cr. 1,22; Ep. 1,13)
khi thì như bảo chứng Chúa Thánh Thần (2Cr.5,5...), hay như dầu xức của Thiên
Chúa. (2Cr. 1,21; 1Ga. 2,27)
Tất cả những
kiểu nói ấy ám chỉ một điều thiết thực và tích cực được đặt vào linh hồn ta.
2. Đạo lý của
Giáo hội. CĐC Trid. đã ấn định :
1o)
Xem chứng minh luận đề XXV.
2o)
Căn nguyên mô thể duy nhất của sự công chính hóa là sự công chính của Thiên Chúa
... làm cho chúng ta trở nên công chính ..., được gọi là công chính và thực sự
là như thế.
3o)Trong
sự công chính hóa, những công phúc của sự thương khó Chúa Giêsu Kitô được áp dụng
cho chúng ta. Trong sự công chính hóa, cùng với việc tha tội, con người, nhờ Chúa
Giêsu Kitô, được lĩnh nhận ba nhân đức phú bẩm : tin, cậy, mến.
4o)
CĐC đã ra án tuyệt thông cho những ai cho rằng con người được công chính hóa không
do sự công chính của Chúa Giêsu, hay cho rằng chính sự công chính của Chúa Giêsu
là mô thể làm cho ta nên công chính. (Si quis dixerit, homines sine Christi
justitia, per quam nobis meruit, justificari, aut per eam ipsam formaliter
justos esse : a.s. (D.S. 820/1560).
5o)
Sự công chính hóa thể hiện : - không bằng nguyên việc gán sự công chính của Chúa
Kitô cho ta, - không bằng nguyên việc tha tội, - cũng không bằng nguyên sự biệt
đại ngoại tại (favore extrinseco) của Thiên Chúa, mà không có ân sủng và đức mến
được phú vào lòng người được công chính hóa, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
3. Lẽ thần học.
( Xét về phía Thiên Chúa, Đấng công chính hóa tội nhân).
Việc Thiên Chúa
tha thứ cho kẻ xúc phạm đến Người ngầm hiểu lòng lân tuất và yêu thương của Người
đối với kẻ ấy. Phần chúng ta, chúng ta chỉ có thể cảm nhận được lòng tốt và yêu
thương của mình đối với người khác, khi chúng ta có hảo ý sẵn lòng tha thứ cho
kẻ xúc phạm đến ta. Nhưng ý muốn của Thiên Chúa thì hiệu nghiệm và phát sinh nơi
con người điều thiện mà Người muốn và yêu thích. Cho nên hảo ý của Thiên Chúa đối
với tội nhân phát sinh nơi người ấy ân sủng làm cho người ấy đắc sủng trước mắt
Chúa. Do đó không thể có sự tha tội mà không có phú ban ân sủng.
(Về phía Chúa
Giêsu). Chúa Giêsu, Đấng Cứu chuộc chúng ta, nhờ công phúc của cuộc tử nạn, đã
vãn hồi cho chúng ta mọi điều thiện thiêng liêng chúng ta đã mất nơi Adam, nguyên
tổ chúng ta. Nhưng nơi Adam đã có sự công chính siêu nhiên nội tại và bám chắc
(justitia interna et inhoerens) vào linh hồn. Cho nên chúng ta, những người được
công chính hóa, có sự công chính nội tại và keo sơn mà ta đã lĩnh nhận khi hội
nhập vào Chúa Giêsu.
(Xét về công
chính hóa riêng của chúng ta). Đặc trưng của sự công chính hóa của chúng ta là
có cường độ hoàn thiện khác nhau nơi nhiều người, và nơi cũng một người. (Xem
luận đề XXIII). Vậy nếu sự công chính hóa chỉ hệ tại việc tha tội mà thôi, hay
chỉ hệ tại việc gán công nghiệp của Chúa Kitô, thì chúng ta không thể giải thích
sự khác nhau về cường độ và hoàn thiện. Cho nên không thể có sự tha tội mà không
ban ân sủng.
(Xét phía những
công hiệu cốt yếu của sự công chính hóa) Người được công chính hóa, do hiệu năng
của sự công chính hóa, được thông dự bản tính Thiên Chúa, nên dưỡng tử của Thiên
Chúa, thành đền thờ của Chúa Thánh Thần, được thừa hưởng phúc trường sinh. Mà
những công hiệu ấy không thể giải thích bằng nguyên việc tha tội hay bằng việc
gán ghép bề ngoài sự công chính của Chúa Kitô. Cho nên phải công nhận có sự phú
ban ân huệ siêu nhiên của Thiên Chúa, tức là ơn nghĩa thánh.
Hệ luận I. Để tha tội,
canh tân nội tâm và thánh hóa con người, chỉ có căn nguyên đích thực là ân sủng.
Bởi vì tội thường tại chỉ có thể bị đẩy lui và gạt ra ngoài một cách đích thực
bởi một mô thể đối lập và tương phản. Mà chỉ có ân sủng là mô thể tương phản và
đối lập với tội thường tại.
II. Ân sủng vừa
tha tội vừa công chính hóa, không cần sự biệt đãi nào khác.
Khi luận phi
giáo thuyết của Thệ phản, CĐC Trid. đã ấn định rằng ân sủng được ban trong phép
rửa tội thì tha tất cả những gì có lý tính tội lỗi. Hơn nữa CĐ còn quả quyết căn
nguyên duy nhất của sự tha tội, canh tân và thánh hóa tội nhân là ân sủng.
§ II. Sự cộng
tác của con người
trong việc công
chính hóa.
Đặt vấn đề. Thiên Chúa
ban ân sủng xuống trong linh hồn, linh hồn phải làm gì ? Giáo phái Luther và
Calvin cho rằng trong việc công chính hóa, tội nhân chỉ là dụng cụ thụ động,
vô hồn.
Sự thực là tội
nhân phải cộng tác bằng những hành vi tự ý. Việc cộng tác ấy là sự chuẩn bị gần
và sau cùng,, thực hiện ngay lúc được công chính hóa.
Luận đề XXVII
(CVII). Để được công chính hóa, con người cần có sự cộng tác tự nguyện.
Chứng minh.- Thánh Kinh.
"Phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì đến với tôi"
(Ga. 6,45). CĐC Trid. cũng dạy : sự công chính hóa được thể hiện do sự tình
nguyện lĩnh nhận ân sủng và các ân huệ.
Câu nói thời
danh của thánh Augustin : " Chúa tạo thành ta không có ta, để cứu chuộc ta
phải có ta"
Thánh Tôma viện
lý căn cứ vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn luôn bảo vệ tự do của
con người. Vì thế khi ban ơn trong linh hồn người ta, thì đồng thời Người huy động
sự tự do của kẻ được ban ơn để họ tự ý lĩnh nhận ân sủng.
Hệ luận. Việc công chính
hóa các trẻ nhỏ (chưa đến tuổi khôn) và người mất trí khôn như điên dại thì không
cần có sự cộüng tác của họ.
§ III. Những
hành vi của đức tin, đức ái
và của sự thống
hối.
Đặt vấn đề. Hoạt động của
ý muốn tự do, trong lúc công chính hóa, nhằm vào hai đối tượng : Thiên Chúa và
tội lỗi. Tội nhân phải lấy lòng tin tưởng sống động và yêu mến nồng nàn mà tự ý
quay về với Thiên Chúa, là cứu cánh mình đã xa lìa ; đàng khác phải thành thực
thống hối để tẩy chay và xa lìa tội lỗi. Sự công chính hóa quả là một việc đổi đời.
Vì thế phải nói đến những hành vi cụ thể đó.
Luận đề
XXVIII (CVIII).- Để được công chính hóa cần có hành vi đức tin.
Chứng minh.-
1. Thánh Kinh. "Không có đức tin không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa."
(Dt. 11,6a); "Anh em hãy đi khắp thế gian, loan báo tin mừng
cho mọi loài thụ tạo, ai tin và chịu phép Rửa tội thì được cứu độ..."Mc.
16,15); "Còn những điều đã chép ra ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là
Đấng Kitô con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người."(Ga.
20, 31).
2. Đạo lý của
Giáo hội. CĐC Trid. đã nhiều lần nhắc lại : đức tin là điều cần thiết, không thể
châm chước, để được ơn công chính hóa.
3. Lẽ thần học.
Việc công chính hóa là việc linh hồn trở về với Thiên Chúa, như đối tượng của hạnh
phúc và như căn nguyên của sự công chính hóa. Nhưng Thiên Chúa theo khía cạnh đó,
ta chỉ có thể nhờ đức tin mới biết được. Cho nên hành vi đức tin là cần thiết
cho được công chính hóa.
Luận đề XXIX (CIX).- Ngoài
hành vi đức tin còn cần có hành vi đức ái.
Chứng minh.- 1. Thánh
Kinh. " Quả thực trong Đức Giêsu Kitô, cắt bì hay không cắt bì, không có
giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái" (Gl. 5,6); ".. Ai bảo rằng
mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích gì ? ...Đức tin
không có hành động là đức tin chết...anh em thấy đó, nhờ hành động mà con người
được nên công chính, chứ không phải chỉ tin mà thôi..."(Gc. 2,14,17);
"Vì thế tôi nói cho ông hay : tội của chị ấy rất nhiều, nhưng đã được tha,
bằng cớ là chị ấy đã yêu mến nhiều"(Lc.7,47); thánh Phaolô đã quả quyết không
có đức mến thì không chi có giá trị"(1Cr. 13,1-13).
2. Đạo lý của
Giáo hội. CĐC Trid. đã ấn định : nguyên đức tin không đủ để công chính hóa, con
người cần phải chuẩn bị bằng những cảm tính của ý chí nữa.
3. Lẽ thần học.
Tội lỗi chính là sự tự ý tẩy chay cứu cánh của mình là Thiên Chúa mà quay về với
điều thiện thụ tạo. Vậy không thể thực hiện việc quay về với Thiên Chúa, nếu không
tẩy chay những điều thiện thụ tạo. Việc quay về đó chỉ có thể thực hiện bằng đức
ái.
Luận đề XXX (CX). Để được
công chính hóa, con người cần thành thực thống hối về các tội khiên.
Chứng minh. Thánh Kinh.
"Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát ; một tầm lòng tan
nát dày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê"(Tv. 50,19); "Nhưng nếu kẻ gian ác
từ bỏ mọi tội nó đã phạm,thì chắc chắn nó sẽ sống." (Ez. 18,21); người thu
thuế cầu nguyện : "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kể tội lỗi",
anh liền đưọc Chúa tha thứ (Lc. 18,134-14). Đứa con phung phá (Lc. 15,21-22).
Người trộm lành thống hối (Lc. 23, 42-43). "Anh em hãy thống hối, và mỗi
người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu, để được ơn tha tội. (Cv. 2,38).
2. Đạo lý của
Giáo hội. Vẫn là giáo huấn của CĐC Trid.
3. Lẽ thần học.
Việc công chính hóa là sự tự ý biến đổi từ tình trạng tội lỗi đến tình trạng công
chính. Vậy sự biến đổi nầy hàm chứa sự từ bỏ khởi điểm (=tình trạng tội lỗi) và
tiến lại đích điểm (=tình trạng ân sủng). Vì là việc tự ý nên được thể hiện bằng
những tâm tình. Ý muốn tẩy chay một đối tượng bằng sự gớm ghét và tiến đến đối
tượng khác bằng tâm tình yêu mến. Đó là hành vi thống hối phát xuất từ ý muốn tự
do. Cho nên để được công chính hóa, cần có hành vi thống hối.
Lược tóm những
căn nguyên của ân sủng
Các căn nguyên
:
Cứu cánh : -
vinh quang của Thiên Chúa (Ep. 1,5-6)
- vinh quang
của Chúa Kitô (1Cr. 2,23)
- vinh quang
của chư thánh (Rm. 6,23)
Tác thành : -
thể lý : -chính = Thiên Chúa
- dụng cụ :*
gắn liền : nhân tính của Chúa Giêsu
* tách rời :
các bí tích
- thừa tác =
linh mục
- Luân lý :
Chúa Giêsu cứu chuộc
Mô thể : -
ngoại = hình ảnh Con Một Thiên Chúa
- nội = thánh
hóa
Chất thể : - đón
nhận = yếu tính của linh hồn
- chuẩn bị =
hành vi tự do thực hiện do
ảnh hưởng ân
sủng

Chương II
Lập Công - Những
công phúc của việc lành
Sự công chính
hóa, như tác căn, phát sinh công phúc. Chương cuối của ân sủng sẽ tìm hiểu hai
vấn đề :
- Thụ tạo có
thể và có thực sự lập công trước mặt Thiên Chúa không ?
- Và lập công
về những điều gì ?
Tiết I. Thụ tạo
có thể và thực sự lập công
Khái niệm .- Công trạng là
thể thức của hành vi nhân tính có suy tính và tự do. Công trạng là quyền lợi của
một người đòi được lĩnh công, phần thưởng bởi người khác, vì đã làm mộüt việc có
ích cho người nầy. Vì thế trong công trạng luôn có hai ngôi vị : người có công
tức người lập công (me-rens) và người thhưởng công (praemiator).
Giữa công trạng
và phần thưởng phải có sự tương ứng, cân bằng, sòng phẳng. Người lập công có
quyền lợi hay danh nghĩa được lĩnh nhận thù lao hay phần thưởng. Người thưởng công
có nghĩa vụ trả công, trao phần thưởng cho người lập công.
Phân loại.- Theo phương
diện siêu nhiên, các đệ tử của thánh Tôma phân biệt công trạng như sau :
1o)
Công xứng đáng (Meritum de condigno), là công có sự cân bằng (aequalitas) với
phần thưởng và đáng hưởng phần thưởng đó theo lẽ công bằng (ex justitia).
Công xứng đáng
được phân biệt : - xứng đáng theo lẽ công bằng nghiêm chỉnh (ex rigore
justitia) ; để lập công nầy, phải có sự cân bằng thực sự hoàn hảo giữa công việc
và phần thưởng, như công nghiệp Chúa Kitô ; - xứng đáng không theo lẽ công bằng
nghiêm chỉnh ; người lập công chỉ hướng công việc mình đến phần thưởng nơi Đấng
ban phần thưởng, như công nghiệp các thánh.
2o)
Công xứng hợp (meritum de congruo), là khi thiếu sự cân bằng giữa công việc và
phần thưởng. Vì thế phần thưởng đưọc ban không phải vì lẽ công bằng mà vì sự xứng
hợp nào đó do lòng quãng đại nhân hậu của Chúa.
Công xứng hợp
có thể làì hiệu nghiệm (infallibilis, chắc chắn có phần thưởng), khi
có lời hứa ban thưởng của Chúa, nhưng là lời hứa vì sự trung tín chứ không phải
vì sự xứng hợp của công trạng ; có thể không hiệu nghiệm (fallibilis, không
chắc có phần thưởng), khi không có lời hứa.
Luận đề XXXI (CXIII). Sự
thực hữu của công trạng là một sự kiện chắc chắn.
Chứng minh. -
1. Thánh Kinh. "Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho
anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước
anh em cũng bị người ta bách hại như thế"(Mt. 5,13); "Anh gọi thợ lại
mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau hết tới những người vào
làm trước hết" (Mt.20,8); "Kẻ trồng người tưới đều như nhau, nhưng ai
nấy được thù lao theo công khó nhọc của mình" (1Cr. 3,8); "Công việc
xây dựng của ai tồn tại trên nền, thì người ấy được lĩnh thưởng. Còn công việc
của ai bị thiêu hủy, thì người ấy sẽ bị thiệt"(Ibi. 3, 14-15); "Phàm
là tay đua thì kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đạt phần thưởng chóng
hư; trái lại chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát"(9,15);
"Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững
niềm tin. Giờ đây tôi chỉ đợi vòng hoa dành cho người công chính"(2Tim.
4,7-8); "Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng trong cơn thử thách, vì một
khi đã được tôi luyện, họ sẽ lĩnh phần thưởng là sự sống Chúa hứa ban cho những
ai yêu mến Người."(Gc. 1,12); "Bất cứ ai làm việc gì, hãy làm tận tâm
như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời, vì anh em sẽ nhận được phần
thưởng Chúa ban là gia nghiệp dành cho dân Người" (Cl. 3,23-24); "Hãy
trung thành cho đến chết, vì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiện sự sống"(Kh.2,10);
"Đây, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến, và Ta đem theo lương bổng để trả cho mỗi
người tùy theo việc người ấy làm"(Kh. 22,12); "Vì Con Người sẽ đến
trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và... Người
sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm"(Mt. 16,27(.
2. Đạo lý của
Giáo hội.- Chân lý, đã được Thánh Kinh dạy cách minh bạch như thấy trên, cũng đã
được Giáo hội trình bày và ấn định nhiều lần, như trong CĐ Orange II, CĐC
Laterano IV, Firenze, nhất là CĐC Trid.
3. Lẽ Thần học.-
Khi chết và vào ngày chung thẩm, Thiên Chúa sẽ phán xét và sẽ thưởng công mỗi
người tùy theo việc họ đã làm. (X.Mt. 25,31-46). Sự phán xét ấy nhất thiết giả định
công trạng, những việc lành của chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Cho nên sự thực
hữu của công trạng là sự kiện chắc chắn.
Giải đáp vấn
nạn.- Ta không nên quan niệm về sự công bình giữa con người với Thiên Chúa như giữa
con người với nhau. Thực ra đôi khi Thánh Kinh cũng trình bày như thế về sự công
bình giữa ta với Thiên Chúa. Sự công bình giữa ta và Thiên Chúa là công bình
theo nghĩa rộng, như con cái với cha mẹ, như đầy tớ với chủ nhân. Hiển nhiên
con người không thể dâng lên Thiên Chúa điều gì mà không lĩnh nhận từ Thiên Chúa
trước ; và nhiên hậu đã không thuộc về Người vì nhiều danh nghĩa. Do đó Thiên
Chúa không có bổn phận nào đối với con người.
Đàng khác không
ai hoài nghi là, nhờ những việc lành, con người có công trạng trước mặt Thiên
Chúa.
Vậy việc lành
của con người đáng công trước mặt Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa đã xếp đặt, đã
qui định cho con người lĩnh công và phần thưởng. Việc xếp đặt và qui định mà
Thiên Chúa in vào mọi việc lành là danh nghĩa hay quyền lợi mà con người nắm để
hy vọng phần thưởng; Thiên Chúa có bổn phận với chính mình chứ không phải với
con người ; nói cách khác, Thiên Chúa đã hứa ban phần thưởng, và lời hứa nầy là
một cái gì nội tại và gắn liền với hành vi, vì lời hứa của Thiên Chúa thì hiệu
nghiệm (inffallibilis)
Lời hứa của
Thiên Chúa cũng được Thánh Kinh xác nhận. "Và đây là điều mà chính Đức Kitô
đã hứa ban cho chúng ta; sự sống đời đời"(1 Ga. 2,25); "Lòng đạo đức
thì lợi ích mọi bề, bởi Chúa hứa ban sự sống hiện tại cũng như tương lai cho người
có lòng đạo đức"(1Tm. 4,8); "Anh em đừng trở nên uể oải, nhưng hãy bắt
chước những người nhờ có đức tin và lòng kiên nhẫn mà được thừa hưởng các lời hứa"(Dt.
6,12); "Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã
được tôi luyện, họ sẽ lĩnh phần thưởng là sự công chính Chúa đã ban cho những
ai yêu mến Người" (Gc. 1,12).
Những điều kiện
của công phúc siêu nhiên. Để một hành vi đáng công trước mặt Thiên Chúa,
phải hội đủ những điều kiện sau :
1. Về phía hành
vi đáng công : 1o) Phải là hành vi tích cực của ý muốn, tức việc lành
phải phát xuất từ hành vi nội tại của ý muốn. Vì công phúc đòi có điều gì tích
cực hướng về Thiên Chúa, hay là thực hiện để phục vụ Người.
2o)
Phải là hành vi tự do. Công phúc là một thể thức của hành vi nhân linh, là một
hành vi phát xuất từ ý muốn có suy tính (a voluntate deliberata).
3o)
Phải là hành vi luân lý, lành mạnh và siêu nhiên. Chỉ có những việc lành mới có
thể lập công đáng thưởng. Lại phải là siêu nhiên, vì phải có tương ứng giữa công
trạng và phần thưởng.
2. Về phía người
lập công : 1o) Phải sống trong tình trạng ân sủng. Đó là điều Giáo hội
ấn định và là lẽ tự nhiên. Phần thưởng là phúc trường sinh. Ai không sống trong
ân sủng là sống trong tội lỗi ; kẻ ấy đáng Thiên Chúa gớm ghét và không thể lập
công trước mặt Thiên Chúa như lời Thánh Kinh :"Thôi đừng đem những lễ vật
vô ích đến nữa... Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các
ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những
máu"(Is. 1,13-15 ; Am. 5, 21-23 ; Ml. 1,10).
2o)
Phải còn sống trên đời. Vì khi linh hồn lìa khỏi xác cũng là lúc kết thúc thời
kỳ lập công "... đã đến giờ tôi phải ra đi... Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng
hoa dành cho người công chính."(2Tm. 4, 6-8). Trong dụ ngôn về người phú hộ
và ông Lazarô, Chúa Giêsu cũng nói về lúc chấm dứt thời lập công (X.Lc.
16,19-31). Thánh Phaolô cũng viết : "Tất cả chúng ta sẽ được đưa ra ánh sáng,
trước tòa Đức Kitô, để mỗi người lĩnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt
hay xấu đã làm khi còn ở trong thân xác"(2Cr. 5,10).
Đây cũng là đạo
lý của Giáo hội đã ấn định tại nhiều Công đồng như Lyon II, Firenze ; Đức
Benedicto XII cũng đã dạy.
3. Về phía thành
quả mà công phúc đưa tới. Phải là điều gì đưa tới phúc trường sinh.
4. Về phía Đấng
thưởng công. Phải là điều Thiên Chúa hứa cho ta vì công việc ta làm.
Tiết II. Về
những đối tượng của công phúc.
Ta có thể lập
công để đưọc ba điều thiện : vinh quang vĩnh cửu, được ân sủng, điều thiện thế
tạm (temporale). Chúng ta sẽ tìm hiểu :
I. Lập công để
được phúc trường sinh ;
II. Lập công để
được ân sủng.
III. Lập công
để được điều thiện thế tạm (temporale)
§ I. Lập công
để được phúc trường sinh
Lạc thuyết. Nhóm Pélage
cho rằng, cứ sức tự nhiên, con người có thể lập công để được phúc trường sinh.
M. Baius thì cho rằng công phúc không hệ tại ơn thánh hóa, mà hệ tại giữ luật
Thiên Chúa. Người Thệ phản thì cho rằng, người công chính nhờ việc lành của mình
không thể lập công xứng đáng (de condigno) để được phúc trường sinh.
Luận đề XXXII
(CXIV). Cứ sức tự nhiên và không có ân sủng trợ giúp, con người không thể
lập công để được phúc trường sinh. (De fide).
Chứng minh. 1. Thánh
Kinh. "Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền
với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. Thầy là cây nho, anh
em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh
nhiều hoa trái, vì không có Thầy anh em không thể làm gì được" (Ga.
15,4-5).
2. Đạo lý của
Giáo hội. Trước hết CĐ Orange II, rồi đến CĐC Trid. đã ấn định ân sủng cần thiết
tuyệt đối để lập công cho được phúc trường sinh.
3. Lẽ thần học.
1o) Phúc trường sinh là điều siêu nhiên theo cốt tính, còn hành vi
nhân linh, nếu không có ân sủng, là tự nhiên thuần túy. Vậy không có tương ứng
giữa siêu nhiên và tự nhiên.
2o)
Hành vi nhân linh tự nhiên cũng không tự qui hướng về phúc trường sinh, vì hành
vi không thể vượt quá căn nguyên hoạt động ; mà căn nguyên tự nhiên không thể hướng
hành vi của mình vượt quá giới hạn tự nhiên.
3o)
Ở đời nầy, con người không có ân sủng là con người ở trong tình trạng tội lỗi;
hiển nhiên không thể làm gì để đáng lập công hưởng phúc trường sinh.
Luận đề
XXXIII (CXV) Chính nhân có thể nhờ việc lành mà lập công xứng đáng để được phúc
trường sinh.
Chứng minh. 1. Thánh
Kinh. "So với hạnh phúc lớn lao họ sẽ được lĩnh nhận thì những đau khổ của
họ chỉ nhẹ nhàng. Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Người."(Kn.
3,5); "Đó là dấu cho thấy Thiên Chúa xét xử công minh : anh em được coi là
xứng đáng tham dự Nước Thiên Chúa, chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau
khổ"(2 Tx. 1,5); "Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công
chính; Chúa là vị Thẩm phán chí công sẽ trao phần thưởng ấy cho tôi trong Ngày ấy,
và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người
xuất hiện"(2Tm. 4,8).
2. Đạo lý của
giáo hội. Như những trích dẫn trên đây. CĐC Trid. Dùng những chữ vere
promeruisse, vere mereri.
3. Lẽ Thần học.
Có thể xét việc có công của con người hai cách : theo bản thể và như xuất phát
từ ý muốn tự do; như phát xuất từ ân sủng của Chúa Thánh Thần.
a) Theo bản
thể và như phát xuất từ ý muốn tự do thì hành vi của con người không xứng đáng
với phúc trường sinh, vì sự trổi vượt của phúc nầy; nhưng có thể xứng hợp phần
nào với phúc ấy, vì không gì xứng hợp cho bằng Thiên Chúa, Đấng trác tuyệt
trong nhân đức, ban thưởng cho người hành động phù hợp với nhân đức của mình.
b) Xét như phát
xuất từ ân sủng của Chúa Thánh Thần, thì có sự tương ứng giữa việc làm và phần
thưỏng, vì con người đã được nâng lên địa vị con cái Thiên Chúa, đưọc thông dự
bản tính Thiên Chúa; lại do sự huy động của Chúa Thánh Thần, việc làm được qui
hướng về phúc trường sinh.
Luận đề XXXIV
(CXVI). Các việc lành của chính nhân phải được đức ái chi phối và điều
khiển mới có thể có công trưóc mặt Thiên Chúa.
Chứng minh. -
1. Thánh Kinh. "Phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái
hay ruộng đất, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp"
(Mt.19,29); "Ai cho anh em uống một chén nước vì anh em thuộc về Đấng Kitô,
thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu"(Mc.9,41);
"Vậy dù ăn, dù uống, hay bất cứ làm việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn
vinh Thiên Chúa."(1Cr. 10,31); "Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng
cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lĩnh phần thưởng là sự sống
Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người"(Gc.1,13). Tin mừng thánh Matthêô
nói rõ về phần thưởng dành cho những việc từ thiện bác ái. (Mt. 25, 31-46).
2. Đạo lý của
Giáo hội. Giáo hội dạy, để lập công trước mặt Thiên Chúa, chẳng những cần có ân
sủng, lại cần ảnh hưởng liên tục của Chúa Giêsu; lại những việc ta lập công, phải
được làm trong Thiên Chúa; hoặc nhờ ân sủng của Thiên Chúa, hay nhờ tinh thần
nghĩa tử trong thâm tâm của con cái Thiên Chúa. Những kiểu nói ấy cho ta thấy ảnh
hưởng của đức ái cần thiết cho việc lành ta làm có công phúc.
3. Lẽ thần học.
1o) (Vì đặc tính của công phúc). Công phúc bao hàm sự qui hướng việc
làm về phần thưởng và sự tình nguyện của ý muốn. Nhưng chỉ có đức ái qui hướng
hành vi của ta về cứu cánh là hưởng nhan thánh Chúa ; lại chỉ có đức ái giúp ta
làm việc lành cách tình nguyện.
2o)
(Vì người thưởng công) Người thưởng công chỉ ban thưởng cho những công việc được
thực hiện để sinh ích cho mình hay ít là để làm rạng danh mình.
§ II. Lập
công để được ân sủng
Ân sủng của
Thiên Chúa có thể xét hai cách : như ân huệ nhưng không, hay như loại biệt
(specifice) theo bản tính của tặng phẩm được ban nhưng không. Hiểu theo ý nghĩa
thứ nhất, thì ân sủng không phải là đối tượng của công phúc. "Nhưng nếu được
chọn nhờ ân sủng, thì không phải là do việc làm, chẳng vậy ân sủng không còn là
ân sủng nữa"(Rm. 11,6). theo ý nghĩa thứ hai, có thể xét về việc lập công cho
tha nhân hay cho bản thân; ơn cho bản thân có thể là ơn thứ nhất, để hoán cải, để
phát triển đời sống siêu nhiên và để bền đỗ.
A. Lập công để
được ân sủng thứ nhất.
Ơn thứ nhất này
có thể là ơn hiện tại hay thường tại; và có nhiều cách thức lập công.
Luận đề XXXV (CXVII). Để
được ơn hiện tại thứ nhất, không thể lấy những việc lành đi trước hay theo sau ơn
ấy mà lập công A: cách xứng đáng, B: hay xứng hợp.
Chứng minh. 1. Thánh
Kinh. Ơn hiện tại thứ nhất là ơn kêu gọi. "Cũng trong Người, chúng tôi được
kêu gọi, được tiền định theo quyết định của Người, Đấng làm nên mọi sự theo ý
muốn của mình"(Ep. 1,11).
2. Đạo lý của
Giáo hội. CĐ Orange II đã ấn định rằng, không một công trạng, một chuẩn bị, không
lời cầu khẩn nào đi trước ân sủng, mà ngược lại.
3. Lẽ thần học.
A.(Cách xứng đáng). 1o) Những hành vi đi truớc ân sủng là những hành
vi tự nhiên. Vậy không tương ứng với ân sủng của Thiên Chúa là thực tại siêu
nhiên.
2o)
Vả lại ở đời nầy, trước khi lĩnh ơn hiện tại thứ nhất, con người đang ở trong tình
trạng tội lỗi thì không thể lập công phúc nào.
B.(Cách xứng
hợp). Vì thiếu tình bằng hữu với Thiên Chúa, con người tội lỗi không thể lập công
theo nghĩa chuẩn bị, vì không có sự tương ứng giữa hành vi tự nhiên với ân sủng
siêu nhiên. Cũng không thể lập công theo nghĩa thỉnh cầu, vì không có ân sủng
thánh hóa thì không thể có đối ứng với điều gì siêu nhiên.
Cũng không thể
nhờ những việc theo sau ơn hiện tại thứ nhất. Vì những việc nầy là công hiệu của
ân sủng rồi, đang khi công phúc là căn nguyên phát sinh công hiệu.
Luận đề XXXVI
(CXVIII). Để được ơn thường tại thứ nhất, không thể lấy những việc lành đi
trước hay theo sau ơn ấy mà lập công xứng đáng hay xứng hợp ; nhưng có thể nhờ
những việc lành đi trước, thực hiện dưới ảnh hưởng của ơn khởi động, mà
lập công cách xứng hợp.
Chứng minh. Có hai loại hành
vi đi trước ơn thường tại thứ nhất : một là hành vi hoàn toàn tự nhiên, hai là
hành vi siêu nhiên thực sự, thực hiện dưới ảnh hưởng của ơn khởi động.
1. Thánh
Kinh. "Mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ
được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban nhưng không, nhờ công trình cứu
chuộc thực hiện trong Đức Giêsu Kitô" (Rm. 3,23-24); "Quả vậy, chính
do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ : đây không phải bởi sức anh
em làm, để không ai có thể hãnh diện"(Ep. 2,8); "Không phải tự sức mình,
chúng ta có thể làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên
Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh
và đổi mới"(Tt. 3,5).
2. Đạo lý của
Giáo hội. CĐC Trid. dạy rằng không có hành vi nào đi trước sự công chính hóa có
thể lập công để được ơn công chính hóa. Điều đó ít là phải hiểu về công phúc xứng
đáng (merito de condigno).
3. Lẽ thần học.
1o.-(Về công xứng đáng). Để lập công xứng đáng phải sống trong tình
trạng ơn nghĩa. Vì trước giây phút được công chính hóa, con người vẫn là tội nhân,
nên không thể lập công phúc nào.
2o.-
(Về những công việc theo sau). Đối tượng của công phúc luôn luôn là chỗ thành tựu
và công hiệu của hành vi lập công, và không bao giờ là căn nguyên của công phúc.
(Về công phúc
xứng hợp). Với sự chuẩn bị và lời cầu khẩn được thực hiện dưới ảnh hưởng của ơn
hiện tại hoạt động và phù trợ, con người có thể lập công xứng hợp để lĩnh nhận ơn
thánh hóa. Lời cầu nguyện khiêm nhường và tín thác là động cơ lập công, như trường
hợp người thu thuế.
B. Lập công
cho tha nhân được ân sủng.
Luận đề.
XXXVII (CXIX). Để tha nhân được ân sủng thứ nhất, trong thực tế, người công chính
: không thể lập công xứng đáng, nhưng có thể lập công xứng hợp.
Chứng minh. (Không thể lập
công xứng đáng). Công xứng đáng ngầm hiểu việc Thiên Chúa qui hướng hành vi nhân
linh về phần thưởng. Vậy ân sủng của người công chính chỉ được qui hướng về sự
thánh hóa chính mình và chinh phục vinh quang cho chính mình thôi.
(Có thể lập công
xứng hợp). Người sống trong ơn thánh có thi hành ý muốn của Thiên Chúa quả là điều
xứng hợp; cũng vậy, nếu vì tình bằng hữu, Thiên Chúa làm cho người công chính
toại nguyện khi cho tội nhân (mà người công chính can thiệp hộ), trở lại, cũng
là điều xứng hợp. Vả lại, người công chính có thể cầu xin cho tội nhân thống hối,
ăn năn.
C. Lập công để
chổi dậy sau khi sa ngã
Luận đề
XXXVIII (CXX). Người sa ngã không thể lập công xứng đáng hay xứng
hợp để được chổi dậy; mà chỉ có thể cầu khẩn.
Chứng minh. Vì việc
Thiên Chúa dùng ân sủng để qui hướng hành vi của chúng ta về lập công đã chấm dứt,
khi ta phạm tội. Mà tội lỗi làm ta mất ân sủng....
Vì tình bằng
hữu với Thiên Chúa, bởi tội lỗi, cũng tan biến.
Chỉ còn có lời
khẩn cầu khiêm nhu, sốt sắng xin được Chúa cho vãn hồi tình trạng ân sủng đã làm
mất vào ngày nào đó.
Hệ luận. Chính
nhân, kiên trì trong ân sủng, có thể lập công, cách xứng hợp, cho tha nhân được
cải hóa sau khi sa ngã.
D. Lập công để
tăng thêm ân sủng và đức ái
I. Những cách
tăng giảm của ân sủng và đức ái.
1o.
Về ân sủng. - Một tập quán có thể tăng giảm hai cách : theo trương độ và cường độ,
nhưng ân sủng và đức ái chỉ có thể tăng thêm theo cường độ, chứ không thể theo
trương độ, vì ngay từ đầu ân sủng đã phải bao trùm mọi đối tượng. Còn cách thức
thể hiện các tập quán thủ đắc và phú bẩm thì tăng giảm khác nhau. Các tập quán
thủ đắc thì được tăng thêm như các tập quán tự nhiên, các tập quán phú bẩm thì
chỉ nhờ Thiên Chúa mà được tăng thêm. Để Thiên Chúa thực hiện việc tăng thêm,
chúng ta cộng tác bằng lập công hay chuẩn bị.
2o.
Những hành vi của đức ái, có thứ là trực phát (actus elicitus), có thứ là thụ lệnh
(actus imperatus). Cả hai đều có thể cao cường hay uể oải như tập quán của chúng.
Lại ân sủng và đức ái thường đi đôi với nhau.
Luận đề XXXIX
(CXXI). Ân sủng và đức ái có thể tăng thêm là một sự kiện thực hữu.
Chứng minh. 1. Thánh
Kinh. "Bước đường người công chính thì giống như ánh sáng rạng đông, vươn
lên cho đến chính ngọ"(Cn. 4,18); "Sống theo sự thật và trong tình bác
ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn lên tới Đức Kitô vì Người là Đầu"(Ep.
4,15); "Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm
dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên"(Pl.
1,9); "Nhưng anh em hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đức Giêsu
Kitô là Chúa và là Đấng Cứu độ chúng ta"(2Pr. 3,18); "Người công chính
cứ hành động công chính nữa đi, và người thánh thiện cứ sống thánh thiện nữa đi"
(Kh. 22,11). Những dụ ngôn về các nén bạc (Mt. 25,14-30), về hạt cải (Mt.
13,31-33), về men bột (Mt. 13,33...) cũng dạy một chân lý ấy.
2. Đạo lý của
Giáo hội. Vấn đề nầy đã được ấn định trong CĐC Trident.
Luận đề XL (CXXII).
Do những việc lành thực hiện dưới ảnh hưởng của đức ái, trực phát hay thụ lệnh,
cao cường hơn kém như tập quán của nhân đức, người công chính có thể lập công xứng
đáng để tăng thêm ân sủng và đức ái.
Chứng minh. Đó là đạo lý
minh bạch của Giáo hội. (Phụng vụ thánh cũng nhắc nhở ta về chân lý ấy, như Lời
nguyện Chúa nhật XXX TN. :"Xin cho chúng con được thêm lòng tin cậy mến...".
Đàng khác tất cả những gì trong sự huy động và qui hướng của ân sủng dều nằm
trong lãnh vực của sự lập công xứng đáng. Vậy sự huy động và qui hướng của ân sủng
không những nhằm vào cứu cánh (tức vinh quang), mà còn vào những thực tại trung
gian là sự tăng thêm ân sủng. Cho nên chính nhân có thể lập công cách xứng đáng
để tăng thêm ân sủng.
E. Lập công để
được bền đỗ đến cùng
Luận đề XLI (CXXV). Có
thể khẩn cầu cách khiêm nhường : A, để xin cho mình hay cho tha nhân được bền đỗ,
hoặc tạm thời hoặc cho đến chết; B, nhưng không thể xin ơn bền đỗ cách hiệu
nghiệm (không sai)
Chứng minh. A. CĐ Orange
II dạy phải cầu nguyện cho mọi chính nhân được bền đỗ trong điều thiện để đạt tới
bến cứu độ. Trong kinh Lạy cha, chúng ta cũng xin, chớ để chúng ta sa chước cám
dỗ, và xin gìn giữ chúng ta khỏi mọii sự dữ.
B. Sự khẩn cầu
ấy không phải là hiệu nghiệm (không sai) trong việc bền đỗ, vì một điều kiện mà
việc cầu nguyện đòi hỏi để được hiệu nghiệm là kiên trì trong lời cầu nguyện. Sự
kiên trì là khởi điểm chứ không phải là đích điểm hay là đối tượng mà lời cầu
nguyện đạt được.
Một hệ luận
quan trọng. Bền đỗ đến cùng, là một hồng ân cao cả. Vậy người ta có
thể lập công để được bền đỗ đến cùng không ?
Phàm nhân,
trong lúc sinh thời, không thể lập công cách xứng đáng hay xứng hợp để được bền
đỗ, lâm thời hay đến cùng, trong điều thiện.
Đạo lý của Giáo
hội khi nói về vinh quang, luôn luôn thêm "miễn là chết trong ân sủng".
Như thế tỏ rõ không thể lập công để được chết trong ân sủng.
Thần học cho
biết không thấy có mặc khải nào nói về việc Thiên Chúa qui hướng việc lành của
chúng ta về sự bền đỗ.
Sự bền đỗ có
thể đạt được nhờ sự phù trợ riêng biệt của Thiên Chúa. Mà sự phù trợ nầy là
nguyên lý của các việc lành. Cho nên không thể lập công để lĩnh nhận.
Tiết III. Những
điều thiện thế tạm
có thể là đối
tượng của lập công ?
Những điều
thiện thế tạm (temporale) của con người là sức khỏe, tài sản, danh dự và những
gì gần như thế.
I. Đối tượng
của lập công có thể là : đối tượng đơn thuần, và đối tượng theo cách nào đó
(simpliciter, secundum quid), tùy theo điều thiện là đơn thuần hay điều thiện
theo cách nào đó.
Điều thiện đơn
thuần (hay tuyệt đối) là hạnh phúc tối hậu, và dĩ nhiên những gì dẫn tới hạnh
phúc ấy; điều thiện theo cách nào đó là những điều thiện theo bản chất nó chỉ có
thể hiểu một cách hạn hẹp, không phổ quát, đó là tất cả những gì không phải là
hạnh phúc tối hậu.
II. Về điều
thiện thế tạm có thể xét hai cách : 1o) xét như chúng có thể đưa ta đến
sự thánh hóa hoặc dẫn ta đến hạnh phúc trường sinh; - 2o) xét chính
bản chất và lãnh vực hạn hẹp của chúng.
Do đó : A -
Những điều thiện thế tạm, xét như chúng có thể đưa ta đến sự thánh hóa và cứu độ
(như sự gia tăng ân sủng, và tất cả những thứ đi sau ơn thứ nhất, giúp ta đạt
phúc trường sinh), đều có thể là đối tượng đơn thuần của lập công.
B. Những điều
thiện thế tạm, xét theo bản chất và lãnh vực hạn hẹp của chúng, tự chúng không
giúp mang lại sự thánh hóa và phần rỗi, thì không thể là đối tượng đơn thuần của
lập công. Những với sự trợ giúp nào đó, chúng mang lại sự thánh hóa và cứu rỗi
con người thì có thể là đối tượng theo cách nào đó của lập công.
Trong trường
hợp nầy, những hành vi tốt lành, được thực hiện dưới sự huy động của Thiên Chúa,
là Đấng qui hướng chúng về một mục đích hay điều thiện nào nhất định. - Điều
thiện ấy nhờ Thiên Chúa phù trợ - mang tính cách của phần thưởng đối với các hành
vi trên đây, xét như được thực hiện, phối trí và hướng dẫn bởi hoạt động của
Thiên Chúa.
Vậy cũng như
trong lĩnh vực siêu nhiên, phúc trường sinh là phần thưởng việc lành của chính
nhân, được thực hiện, phối trí và hướng dẫn bởi hoạt động siêu nhiên của ân sủng,
thì tương tự như thế, trong lĩnh vực tự nhiên, những điều thiện thế tạm là phần
thưởng của những hành vi đoan chính tự nhiên, được thực hiện, phối trí và hướng
dẫn bởi hoạt động của Thiên Chúa.
Theo cách ấy
Thiên Chúa thưởng công cho mọi việc lành, kể cả những việc lành tự nhiên. Tuy
nhiên phần thưởng nầy chỉ có thể là điều thiện thế tạm. Lịch sử dân Do thái thời
Cựu ước chứng tỏ là bao lâu dân giữ lề luật thì được an cư lạc nghiệp, nhưng
khi dân vi phạm luật Thiên Chúa thì phải chịu nhiều tai ương.
============================
Phụ Trương Về Ân Sủng
MẶC KHẢI VỀ ÂN
SỦNG TRONG CỰU ƯỚC
Danh từ ân sủng
đã có ngay từ thời Cựu Ước, nhưng sau nầy trong Tân Ước nó còn mang ý nghĩa rộng
rãi hơn. Lại nữa Tân Ước còn dùng danh từ nầy để chỉ định chế độ mới do Chúa Giêsu
thiết lập, đối chiếu với chế độ cũ của lề luật Môisen : Ân sủng đối lập
với Lề luật.
Rm 6,14 :
"Anh em không còn ở dưới lề luật nữa, mà ở dưới ân sủng".
Ga 1,17 :
"Luật đã đưọc ban bố nhờ Môisen, còn ân sủng và sự thật thì nhờ Đức Giêsu
Kitô mà có. Như thế trước tiên và tự căn là ân huệ (donum) mà Thiên Chúa ban
cho nhân loại : chính Con Một Người là Đức Giêsu Kitô".
Rm 8,32 :
"Người đã không tha cho chính Con của Người, mà đã phó nộp Ngài vì chúng
ta hết thảy, làm sao Người lại không ban cho chúng ta mọi thứ ân huệ khác cùng
với Con của Người".
Tóm lại, ân
sủng là : chính ân huệ xét như là chứng tích cụ thể của lòng ưu ái nơi Thiên
Chúa.
Căn nguyên của
ân huệ đó : là tâm tình quãng đại, là lòng ưu ái khoan hậu.
Hiệu quả của ân
huệ nơi người lĩnh nhận : là sự sáng, là vẻ kiều diễm làm cho con người trở nên
xứng đáng và đẹp lòng Thiên Chúa
Trong Cựu Ước, việc ân ban
Con Thiên Chúa cho nhân loại đã được loan báo, kết ước và kỳ vọng dưới nhiều hình
thức và bằng nhiều cách diễn đạt. Cựu Ước :
a) Nhấn mạnh
lòng quãng đại của Yahwê.
b) Diễn tả những
cách biểu hiện của lòng quãng đại trong thế giới thụ tạo.
c) Trình bày
những hiệu quả kỳ diệu của hồng ân Thiên Chúa nơi con người biết đón nhận.
I. CỰU ƯỚC
A. Lòng quãng
đại của Đức Yahwê
Cựu Ước trình
bày Đức Yahwê tự căn bản như là Đấng có lòng quãng đại : ban phát, tha thứ, thương
chiếu cố và săn sóc dân Người, đặc biệt đối với những người nghèo đói và bất hạnh.
Để diễn tả thái độ nầy của Yahwê, Cựu Ước dùng những từ ngữ hoặc kiểu nói đã phân
tích ở trên. Giữa rất nhiều bản văn, xin đan cử một vài ví dụ :
Tv 36,8 : Lạy
Chúa, quí báu thay tình yêu của Ngài, mọi con cái loài người nấp bóng dưới cánh
Ngài. Yến tiệc nhà Ngài họ được no nê, suối hoan lạc Chúa cho uống thỏa thuê.
Tv 53,4 : Tình
yêu Chúa quí hơn mạng sống.
Tv 102,14 : Xót
thương Sion Ngài sẽ đứng dậy vì đây là thời buổi thi ân.
Os 2,19 : Ta
sẽ cưới ngươi trong niềm xót thương và lân mẫn.
Xem thêm : Tv
25,6-7 ; Tv 51,3 ; Is 54,7-8 ; Is 63,7 ; Ex 34,67.
B. Những cách
biểu hiện
của lòng quãng
đại trong thế giới thụ tạo
Lòng quãng đại
Thiên Chúa lan tràn trên mọi xác thể (Sir 1,10), nhưng dấu chỉ đặc sắc nhất là
việc tuyển chọn Israel, một sự tuyển chọn hoàn toàn nhưng không : Israel không
có công nghiệp gì, không có uy thế nào, cũng không phải vì số đông hay vì hạnh
kiểm cao quí nào. Chỉ có lý do độc nhất là vì "ân huệ" của Thiên Chúa
hay nói cách khác đi là vì lòng trung tín và tình yêu của ngài .
Dnl 7,7-9 : Nếu
Yahwê đã ràng buộc mình với các ngươi, và tuyển chọn các ngươi, điều đó không
phải tại các ngươi đông đảo nhất giữa các dân, ngược lại các ngươi là dân thiểu
số, nhưng chính vì tình yêu dành cho các ngươi... Yahwê Thiên Chúa của ngươi là
Thiên Chúa chân thật, Thiên Chúa trung tín, Người duy trì giao ước của Người đối
với những ai tuân giữ và yêu mến giao ước của Người cho đến muôn thế hệ.
Biểu tượng đặc
biệt của ân huệ đại lượng là hứa địa mà Thiên Chúa đã ban cho dân Người, một xứ
đầy những thác suối ... có nhiều núi đồi và thung lũng được mưa trời tưới gội.
Trong tất cả
những ân huệ mà Thiên Chúa ban cho dân, ân huệ quí gía nhất phải là lề luật. Người
Do thái đạo đức luôn phấn khởi vì vẻ đẹp và sự phong phú của lề luật (Tv 118). Đó
là điều hợp lý, vì đối với người Do Thái đạo đức, lề luật không phải là một việc
có tính cách pháp lý hay một kỷ luật xã hội. Lề luật là cái giúp cho tín hữu
nên giống Đức Yahwê. Tuân giữ lề luật tức là trở nên giống hình ảnh Thiên
Chúa. Lề luật giúp ta trở nên giống Người : "Hãy nên thánh vì Ta là đấng
thánh".
Lòng quãng đại
nhưng không của Yahwê vẫn mong được đáp ứng : Thiên Chúa trông đợi sự trao đổi,
một sự thông hiệp về phía kẻ được ân hưởng
Dnl 10,12 : Và
bây giờ hỡi Israel, Yahwê Thiên Chúa đòi hỏi chi ngươi, nếu chẳng là ngươi phải
kính sợ Thiên Chúa ngươi, tuân theo đường lối Người, phải yêu mến và phụng sự
Yahwê Thiên Chúa ngươi hết tâm hồn, và hết sức lực ngươi. (Dnl 6,6; 6,12;
11,1).
C. Những hiệu
quả kỳ diệu
nơi người biết
đón nhận
Phúc lành của
Yahwê làm cho kẻ biết đón nhận được tràn đầy sự sống và niềm hoan lạc. Ân huệ của
Thiên Chúa tạo nên một tương giao bản vị giữa con người và Thiên Chúa. Tương
giao nầy vừa là tương giao phụ tử vừa là tương giao tự hiến tương tự như sự tự
hiến của người vợ dành cho đức lang quân.
Tình phụ tử : Is 43,3-5
(tình yêu) : Ta là Yahwê Thiên Chúa ngươi, Đấng Thánh của Israel, cứu Chúa của
ngươi. Ta ban Ai cập làm giá chuộc ngươi, Kusa và Sêba làm của lễ thay ngươi.
Vì Ta đã coi
ngươi là quí báu, đáng giá và Ta đã yêu ngươi, nên Ta sẽ ban những người thế ngươi
, và các dân tộc thay mạng sống ngươi. Đừng sợ vì Ta ở cùng ngươi : Ta sẽ khiến
dòng dõi ngươi đến từ phương Đông và nhóm họp ngươi từ phương Tây.
Tâm tình thánh
hiến : Xh 19,6. Các ngươi sẽ thành một nước tư tế, cùng một dân tộc thánh cho
Ta !
Nhưng thay vì
sự đáp ứng hiếu thảo và lối sống thánh thiện, dân Israel lại nổi loạn. Đó là một
đề tài phổ thông : Os 4,18; Is 1,4; Jer 9,4.
Tuy nhiên Thiên
Chúa giàu lòng nhân hậu sẽ biến đổi tâm địa con người, Người sẽ tẩy sạch mọi hư
hỏng và thay thế trái tim chai đá của họ bằng một trái tim mới bằng máu thịt để
họ có thể nhận biết Yahwê. Đó sẽ là công việc của Thần Linh Yahwê (Ez
36,27) và cũng là thần thống trị của đức công chính Yahwê (Is 45, 8-24).
II. TÂN ƯỚC
A. Cái nhìn tổng
quát
1Ga 4,9 : Ân
sủng của Thiên Chúa được mạc khải và được trao ban nơi Đức Giêsu Kitô.
Thiên Chúa
ban cho thế gian Con Một của Người : đây là ân huệ cao quí nhất. Tân Ước dùng
danh từ "charis" để diễn tả nguồn ân huệ nầy trong Thiên Chúa. Charis
theo Tân Ước là lòng yêu mến, lân mẫn, trung tín và nhân hậu của Thiên Chúa. Vì
theo lời cầu chúc tuyệt hảo nhất chính là ước mong tha nhân được
"charis" của Thiên Chúa. (Tư tưởng nầy hầu như phảng phất trong tất cả
các thư của thánh Phaolô).
Đức Giêsu Kitô
: Một đàng, Mạc khải biểu lộ nội tâm thâm sâu của Thiên Chúa. Nội tâm ấy chính
là tình yêu (1Ga ?,8) :"Ai không yêu mến không biết được Thiên Chúa
vì Thiên Chúa là tình yêu"
Và là Ân sủng
(Tt 2,11; 3,4) :"Vì ân sủng của Thiên Chúa, nguồn cứu độ cho mọi người, đã
được thể hiện. Nhưng đến ngày mà lòng nhân ái của Thiên Chúa, Đấng cứu chuộc chúng
ta và tình yêu của Ngài đối với mọi người tỏ hiện ..."
Đàng khác, Đức
Giêsu chính là ân huệ của Thiên Chúa, có nghĩa là chính Người là tình yêu và ân
sủng của Thiên Chúa : Người là sự yêu mến, lòng trung tín và nhân ái mà Phúc âm
Nhất lãm (không dùng chữ Gratia) làm chứng. Ngài là tất cả lòng quãng đại (2Cr
8,9).
2Cr 8,9 :
"Anh em biết ân đức của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Người giàu có biết
chừng nào, mà lại chấp nhận nghèo khổ như anh em để làm cho anh em nên giàu
sang nhờ sự khó nghèo của Người".
Ga 4,9 :
"Tình yêu của Thiên Chúa, Cha chúng ta, đã được tỏ hiện như vậy là Thiên
Chúa đã sai Con Một Người đến trong thế gian để chúng ta sống nhờ Người".
B. Vài khía cạnh
của
mầu nhiệm ân
sủng trong Tân Ước
Chúng ta sẽ
nghiên cứu một vài khía cạnh của ân sủng theo Tân Ước, đặc biệt thư thánh Phaolô.
Ân sủng là một
tuyển chọn của Thiên Chúa.
Ân sủng đòi hỏi
con người một đáp trả và một nỗ lực tự do.
Tính cách nhưng
không của ân sủng.
Ân sủng và sự
công chính hóa nội tâm.
1. Ân sủng là
một tuyển chọn của Thiên Chúa
Chính Thiên
Chúa tuyển chọn và kêu gọi : không phải con người, mà chính Thiên Chúa khởi xướng
trước tiên.
Gl 1,15 :
"Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã
gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mạc khải Con của Người cho
tôi.... tức khắc tôi đã sang xứ Ả rập".
Thiên Chúa mời
gọi, trước tiên và trước hết, tham dự ơn cứu rỗi.
2Tm 1,9 :
Người (Thiên Chúa) đã cứu độ và kêu gọi chúng ta do ơn thánh triệu của Người,
không phải vì công việc chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người".
Thiên Chúa cũng
mời gọi tham dự những sứ mệnh và chức vụ đặc biệt trong Giáo hội của Đức Kitô.
Gl 2,8 : Đấng
đã dùng ông Phêrô hoạt động tông đồ cho những người được cắt bì, cũng đã dùng tôi
hoạt động cho dân ngoại"
2. Ân sủng và
sinh hoạt tự do : đáp trả của con người.
Một đàng, Kinh Thánh xác
quyết rằng, ân sủng là nguồn suối không bao giời cạn của sinh hoạt kitô giáo và
của sự thánh thiện. Trước khi các sứ đồ ra đi rao giảng Tin mừng, cộng đoàn đã
phó thác cho họ Charis của Thiên Chúa lo liệu (Cv 14,16; 15,40). Tất cả những gì
là tốt trong người kitô hữu, ngay cả những gì có vẻ cá nhân và thâm sâu nhất, cũng
đều là kết quả do ân sủng tác động.
1Cr 15,10 :
"Nhưng tôi có là gì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã
không vô hiệu ; trái lại tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng
không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa thúc đẩy tôi".
Đàng khác, Tân
Ước cũng xác quyết một cách chắc chắn, nhưng là mặc nhiên, để mọi người biết rằng
ân sủng luôn biến dạng và gây tác dụng nầy, đòi hỏi một sự đáp trả, một cọng tác
tự do của con người. Con người phải biểu dương những nỗ lực của mình một cách tự
do. Rất nhiều đoạn văn của Tin mừng và của thư thánh Phaolô minh chứng rõ ràng ân
sủng và tự do không chống đối nhau, cũng không được đặt trên cùng một bình diện.
Hơn ai hết Phaolô nhấn mạnh đến tính cách nhưng không và cần thiết của ân sủng,
và cũng không ai hơn Phaolô đã làm nổi bật một sự đáp trả thiết yếu và tích cực
của con người : nhờ những cố gắng trong đời sống luân lý và thần bí. Không có dấu
vết của định mệnh thuyết hoặc một tất định thuyết trong học thuyết của thánh
Phaolô.
3. Tính cách
nhưng không của ân sủng
Ep 2,7-10 : "Như
thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, để
biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người.
Quả vậy chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ : đây không phải
bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa ; cũng không phải bởi việc anh
em làm, để không ai có thể hãnh diện. Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên
Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Giêsu Kitô, để sống mà thực hiện công trình
tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta."
Đặc tính nhưng
không theo giáo huấn của thánh Phaolô là một trong những nét đặc trưng nền tảng
của ân sủng thần linh. Về sau trong từ ngữ hy lạp cũng như latinh và pháp, danh
từ charis, gratia, grâce, thường được xem như đồng nghĩa với gratis,
gratuit (nhưng không)
Điều nầy có
nghĩa là ân sủng Thiên Chúa ban cho con người không giống như đồng lương cân xứng
với những cố gắng vất vả của họ, nhưng là một ân huệ thuần túy do lòng quãng đại
của Thiên Chúa trao ban.
Rm 11,5-6 : "Ngày
nay cũng vậy, còn sót lại một số người được tuyển chọn nhờ ân sủng của Thiên Chúa.
Nhưng nếu được chọn nhờ ân sủng, thì không phải là do việc làm, chẳng vậy ân sủng
không còn là ân sủng nữa".
Thư gửi cho tín
hữu Rôma và Galát là những thư nhấn mạnh cách đặc biệt tính cách nhưng không của
ân huệ Thiên Chúa : những công việc của luật Do thái, cho dầu được tuân giữ
nghiêm nhặt cũng không thể đem lại cho chúng ta những ân huệ của Thiên Chúa.
Con người lĩnh
nhận ân sủng thần linh nầy nhờ đức tin, nhưng đừng quên rằng đức tin cũng là một
ân huệ nhưng không.
Những chân lý
nầy làm phát sinh nơi con người một thái độ khiêm nhường và biết ơn sâu xa khi đối
diện với Thiên Chúa.
4. Ân sủng và
sự công chính hóa
Sự công bình
của Thiên Chúa "công chính hóa con người" có nghĩa :
Cl 1,13-14 : "Người
đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử
chí ái : trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được tha thứ tội lỗi".
Đây là một cuộc
biến đổi thực sự và mật thiết sâu xa làm cho con người nên duyên dáng trước mặt
Thiên Chúa.
Rm 6,4 : "Nhờ
bí tích rửa tội, ta được mai táng làm một với Người trong sự chết của Người, để
như Người được sống lại từ cõi chết nhờ vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng được
sống đời sống mới".
Về sau Công đồng
Trentô cũng nhấn mạnh đặc biệt quan điểm nầy của giáo lý Tân Ước.
Ân sủng và tự
do :
Hoạt động thần
linh và hoạt động nhân linh
Trong mọi cấp
độ của hữu thể thụ tạo, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo ra các "giá trị"
và sự "kiên vững". Theo viễn tượng nầy Thiên Chúa không những kính trọng
sự tự lập của các nguyên nhân đệ nhị (thụ tạo), mà còn làm nên chính sự tự lập đó.
Nghĩa là, theo quan điểm sáng tạo của Tôma, tất cả (nguyên nhân đệ nhị) đều thực
sự có một hữu thể, một bản tính, một hiện hữu. Những hữu thể thụ tạo không phải
là những dáng vẻ hiện hữu bên ngoài. Hoạt động của các "bản tính thụ tạo"
không thuộc loại hành động của một con rối trong tay một đạo diễn giật giây
theo ý. Thiên Chúa, Đấng sáng tạo ra tự do, không chỉ kính trọng sự tự do đó, xét
là tự do, Ngài còn làm nền tảng cho chính sự tự do đó, xét là tự do thực sự.
Thiên Chúa không tạo nên những dáng vẻ tự do, nhưng là tự do chính danh, thực sự,
đích thực. Như vậy không thể có tranh chấp giữa quyền năng tuyệt đối của Thiên
Chúa sáng tạo và tính tự phát thực sự của ý chí nơi hành vi tự do của thụ tạo.
Hành vi chỉ hiện hữu như là tự do, bởi vì Thiên Chúa tạo nên hành vi đó tự do
thực sự.
"Con người
được Thiên Chúa tác động như một dụng cụ. Điều đó không chút loại trừ việc con
người tự tác động chính mình do ý chí tự do. Do đó, con người lập công hay không
trước mặt Thiên Chúa là nhờ hành động của mình (th. Tôma)
Giáo huấn của
Công đồng Trentô về ân sủng
Công đồng
Trentô, trong khóa họp thứ sáu (13-4-1547), đã bàn đến giáo thuyết về ân sủng
trong Sắc lệnh về ơn công chính hóa. Ở đây không phân tích tỉ mỉ Sắc lệnh dài nầy,
mà chỉ lược tóm tổng quát như sau :
Công đồng đã
làm nổi bật hẳn hai ý lực căn bản của giáo lý công giáo về ân sủng. Một đàng,
ơn công chính hóa không phải là một cái gì ngoại tại nhưng chính là một biến đổi
tận căn con người, một sự canh tân thâm sâu và đích thực. Mối tương quan bằng hữu
thần linh chính là ân sủng, không chỉ là một điều gì có tính cách luân lý hay
pháp định. Đó chính là một đời sống mới. Đàng khác, Công đồng quả quyết rằng
trong sự canh tân đó, con người không phải là một dụng cụ bất động và thụ động,
nhưng thực sự cộng tác vào sự công chính hóa và sự thánh hóa bản thân mình.
Ơn công chính
hóa (việc Chúa trao ban ân sủng) là một công trình hoàn toàn nhưng không của
Thiên Chúa. Nó chính là việc vượt qua từ tình trạng con người sinh ra làm con cái
của Adam thứ nhất đến tình trạng ân sủng và được làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Ân
sủng nầy không hệ tại sự qui định pháp lý cũng không phải do việc tẩy xóa
tội lỗi : nhưng sâu xa hơn, đây chính là tình trạng riêng biệt của từng cá nhân
: ơn nghĩa tử đích thực với toàn bộ những ân sủng siêu nhiên của nó : Tin, Cậy,
Mến. Ơn công chính hóa là một thực tại đính liền với linh hồn của con người được
công chính hóa.
Thứ công chính
của Thiên Chúa mà Người trao ban cho ta và nhờ đó ta được canh tân phần thâm sâu
của tâm trí ta, là không những ta được xem là công chính mà còn là công chính
thực sự .
..."Vì
chưng Thiên Chúa không ghét bỏ điều gì nơi con người đã được tái sinh, bởi vì
không có gì là đáng án phạt đối với những kẻ đã được mai táng thực sự với Đức
Kitô trong sự chết nhờ thanh tẩy qua bí tích, vì những kẻ ấy không còn theo xác
thịt, nhưng cởi bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới đã được dựng nên giống
hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, họ đã trở nên vô tội, vô tì vết, tinh tuyền, vô phương
trách sứ, được đặt làm con chí ái của Thiên Chúa, tức trở nên thừa tự của Thiên
Chúa và đồng thừa tự với Đức Kitô, đến nỗi tuyệt nhiên không gì có thể ngăn cản
họ vào thiên đàng. (Decretum de peccato originali S.S. 1515 '702').
Đồng thời Công
đồng xác quyết vẻ tươi đẹp và thánh thiện của con người đã được công chính hóa.
Công đồng lại xác quyết một cách mạnh mẽ không kém ơn công chính đó là một hồng
ân của Thiên Chúa hoàn toàn tùy thuộc vào sự công chính của Đức Giêsu. Sự công
chính nầy của Đức Giêsu là nguyên nhân tác thành và mô phạm không ngừng tác động
và gây nên sự công chính của người kitô hữu. Sự công chính nội tâm của người
kitô hữu luôn luôn lệ thuộc vào tác động và ảnh hưởng của Đức Kitô,
.... "Thực
ra dù không ai có thể được công chính trừ khi người đó được thông truyền những
công nghiệp do cuộc tử nạn của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì trong việc công
chính hóa của kẻ vô đạo, việc thông ban những công nghiệp đó được thực hiện là
khi tình yêu của Thiên Chúa tuôn tràn nhờ Chúa Thánh Linh vào tâm hồn những kẻ được
công chính hóa và sát nhập vào họ, nhờ công nghiệp cuộc tử nạn rất thánh của Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Vả lại sự công
chính riêng tư của chúng ta không được coi như là riêng tư do tự sức chúng ta. Điều
đó mọi người đều biết, cũng như không có ý chối bỏ sự công chính của Thiên Chúa.
Sự công chính đó được kể là của chúng ta vì chúng ta được công chính hóa nhờ ơn
nầy liên kết với ơn công chính của Thiên Chúa. Chính ơn đó là của Thiên Chúa vì
nó được tuôn tràn cho chúng ta nhờ công nghiệp của Đức Kitô.....
Người kitô hữu
đừng bao giờ tự tín thác, tự vinh quang ở chính mình mà không ở trong Chúa, vì
lòng nhân hậu của Người đối với nhân loại thật lớn lao đến nỗi Người muốn những
hồng ân của Người trở nên công nghiệp của họ. (5D.S 1547 '809').
Trong chương
16 của Sắc lệnh, Công đồng giảng dạy giáo thuyết Kinh Thánh và cũng là của thánh
Augustinô về công nghiệp. Người kitô hữu, một khi đã được công chính hóa, thì
thực sự lập công nghiệp. Người lập công nghĩa là người đó xứng đáng một trật được
hưởng sự tăng triển ân sủng trong đời sống hiện tại, đồng thời xứng đáng lĩnh
nhận đời sống vĩnh cửu. Các việc từ thiện, đặc biệt đức bác ái huynh đệ, không
những là dấu chỉ của ân sủng mà còn là những nguyên nhân của sự tăng triển ân sủng
nầy hướng đến sự sống vĩnh cửu. Nhưng Công đồng nhiều lần quả quyết rằng quan
niệm nầy về công nghiệp không làm thiệt hại chút nào đến hoạt động toàn năng và
hoàn toàn nhưng không của Thiên Chúa. Mọi sự là một hồng ân nhưng không, kể cả
những nỗ lực lập công của chúng ta. Tất cả đều là hồng ân nhưng không, nhưng những
ơn nhưng không của Thiên Chúa không hề triệt tiêu tự do của con người. Dù hoàn
toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, hành vi thiện hảo của người kitô hữu đồng thời cũng
thực sự là hoạt động của con người tự do.
Sắc lệnh về ơn
công chính hóa quả thật rất phong phú về thần học cũng như về tu đức : trong đó
giáo thuyết về ân sủng đã được trình bày thật quân bình và đầy đủ. Sắc lệnh đó
hoàn toàn dựa trên Mặc khải Kinh Thánh (đặc biệt thánh Phaolô). Trong toàn lịch
sử Giáo hội, đây là một trong những bản văn hay nhất của Quyền Giáo huấn.
Giáo huấn của
Giáo hội về sự tiền định
1. Định nghĩa.-
Người ta gọi tiền định là một phán quyết có tính cách vô thủy vô chung của ý
muốn Thiên Chúa về việc chấp nhận các thụ tạo có lý trí vào hạnh phúc vĩnh cửu,
hoặc loại trừ chúng khỏi hạnh phúc đó.
"Praedestinatio
est quaedam ratio ordinis aliquorum in salutem aeternam in mente divina
existens" (St Thomas I,23, 2).
Sự tiền định
nơi Thiên Chúa gồm hai phương diện :
- Hoạt động
trí thức (praescientia).
- Hoạt động ý
chí (praedeterminatio).
2. Giáo huấn
của Giáo hội : A. Thiên Chúa, do sự định đoạt có tính cách vô thủy vô
chung của ý muốn Người, đã tiền định một số người được vào hạnh phúc vĩnh cửu
(de fide, do giáo huấn phổ thông).
Thư gửi giáo đoàn
Rôma (8,29,30) bao hàm mọi phương diện về sự tiền định như trong định nghĩa trên
: praescire, praedestinare, vocare, justificare, glorificare.
B. Thiên Chúa,
do sự định đoạt có tính cách vô thủy vô chung của ý muốn Người, đã tiền định một
số người bị án phạt đời đời (de fide).
Về điểm nầy
thường căn cứ vào Phúc âm Mt 25,41 : lời nguyền rủa những người bên trái của Đức
Vua trong ngày thẩm phán ; và Rm 9,22 : Thiên Chúa kiên nhẫn chờ sẵn ngày diệt
vong mới phạt những người đáng chịu cơn thịnh nộ.
Về vấn đề nầy
thánh Augustinô nói : "Thiên Chúa khoan nhân, Thiên Chúa công bình, Người
có thể cứu rỗi một số người mà riêng họ chẳng có một công trạng tốt lành gì, vì
Người là Đấng khoan nhân ; nhưng Thiên Chúa không thể luận phạt một ai vô tội,
vì Người là Đấng công bình.
3. Những đặc
tính của tiền định
a) Tính bất biến
: Xét như là một hoạt động trí thức và ý chí của Thiên Chúa thì sắc lệnh tiền định
sẽ bất biến cũng như chính hữu thể của Thiên Chúa. Thiên Chúa biết và Người muốn
một cách tất nhiên rằng có một số đã được tiền định và cũng chỉ một mình Người
biết những kẻ ấy thôi. Giáo hội không dạy gì bằng cách buộc tin về số lượng
(?) những kẻ được tiền định.
b) Tính vô định
: Để phản đối thuyết tiền định Calvin, Công đồng Trentô đã minh định trừ sự mạc
khải đặc biệt của Thiên Chúa ra thì con người không thể chắc chắn tuyệt đối rằng
mình đã được tiền định hưởng vinh quang. Tuy nhiên theo các nhà thần học, cũng
có những dấu hiệu khá chắc chắn về sự tiền định hưởng vinh quang : bền độ thực
hiện tám mối phúc thật, siêng năng rước lễ, tình bác ái huynh đệ, tình yêu đối
với Chúa Kitô và Giáo hội, sùng kính Đức Trinh Nữ.
MỤC LỤC
ĐOẠN I. Sự cần thiết
hay thực hữu của ân sủng ......................4
Đoạn này sẽ bàn
tới : Chương I. Quan niệm về ân sủng
Chương II. Những
lạc thuyết về ân sủng
Chương III.
Những bậc khác nhau của nhân loại trong tương
quan với ân sủng
Chương IV. Sự
cần thiết của ân sủng
Tiết I. Sự cần thiết
của ân sủng để hối cải tội lỗi.
Tiết II. Sự cần thiết
của ân sủng để tránh tội lỗi.
Tiết III. Sự cần thiết
của ân sủng để người công chính làm
lành lánh dữ
Tiết IV. Sự cần thiết
của ân sủng để bền chí trong điều thiện.
Đoạn II. Về bản chất của
ân sủng
Chương I. Ân
sủng có đưa một thực tại thụ tạo nào
vào linh hồn
chăng ?
Chương II. Ân
sủng có phải là một phẩm tính không
Tiết I. Bản tính của ơn
thường tại
§ 1. Yếu tính của ơn
thường tại xét theo hữu thểí thụ tạo
§ 2 Yếu tính của
ơn thường tại xét theo mô thể siêu nhiên.
§ I. Yếu tính của ơn
hiện tại xét theo hữu thể thụ tạo.
§ I.Về yếu tính
của ơn hiện tại xét theo mô thể thiêng liêng
Chương III. Ân
sủng có thực sự khác với nhân đức không
Chương IV. Chủ
Thể Riêng Biệt Và Trực Tiếp Của Ân Sủng
Phải Chăng Là
Yếu Tính Của Linh Hồn ?
ĐOẠN III. Sự phân biệt
các ân sủng
Chương I.Ân sủng
được phân biệt :
Thành ơn thánh
sủng và ơn đoàn sủng.
Chương II. Ơn
thánh sủng được phân biệt :
Thành ơn hoạt
động và ơn cộng tác.
TIẾT I : Ơn hiện tại
hoạt động và cộng tác.
Tiết II. Về ơn thường
tại hoạt động và cộng tác 59
Chương III. Sự
tái phân của ơn đoàn sủng 60
Chhương IV. Cách
phân chia thông dụng 63
§ 1. Thực hữu của
ơn hiệu nghiệm 66
§ II. Những đặc trưng
của ơn hiệu nghiệm 67
Đoạn IV. Nguyên nhân của
ân sủng 69
Chương I. Căn
nguyên tác thành của ân sủng. 69
Tiết I. Căn nguyên thể
lý chính của ân sủng. 69
Tiết II. Căn nguyên
luân lý chính của ân sủng. 71
Tiết III. Dụng căn của
ân sủng. 71
Chương II. Về
căn nguyên chuẩn bị của ân sủng. 71
Tiết I. Những thứ chuẩn
bị. 71
II. Những đặc trưng của
việc chuẩn bị gần (hoàn bị). 72
III. Những hành vi hợp
thành việc chuẩn bị xa hay gần. 72
IV. Hai hành vi riêng
biệt : Đức ái và thống hối trọn 73
Tiết II. Sự cần thiết
của việc chuẩn bị để lĩnh ân sủng 74
Tiết III : Bản tính của
sự chuẩn bị 76
Chương III. Về
mối tương quan giữa sự chuẩn bị 77
Và sự lĩnh nhận
ân sủng. 77
Tiết I. Mối tương
quan giữa sự chuẩn bị và ơn thánh hóa. 77
Tiết II.- Tương quan
giữa các ơn hiện tại (actuale) 79
Chương IV. Về
sự hoàn thiện hơn kém của ân sủng 80
Đoạn V. Những công
hiệu của ân sủng 83
Chương I. Sự
công chính hóa tội nhân 83
Tiết I. Bản chất của
sự công chính hóa 84
Tiết II. Những yếu tố
kết thành sự công chính hóa 85
§ I. Sự cần thiết của
việc ban ân sủng để tha tội 86
§ II. Sự cộng tác của
con người trong việc công chính hóa. 91
§ III. Những hành vi
của đức tin, đức ái 91
và của sự thống hối.
91
Chương II. Lập
Công - Những công phúc của việc lành 95
Tiết I. Thụ tạo có thể
và thực sự lập công 95
Tiết II. Về những đối
tượng của công phúc. 100
§ I. Lập công để được
phúc trường sinh 100
A. Lập công để được ân
sủng thứ nhất. 104
B. Lập công cho tha
nhân được ân sủng. 104
C. Lập công để chổi dậy
sau khi sa ngã 106
D. Lập công để tăng
thêm ân sủng và đức ái 107
E. Lập công để được bền
đỗ đến cùng 109
Tiết III. Những điều
thiện thế tạm có thể là đối tượng
của lập công ? 110
Phụ trương về
ân sủng ............................................ ....... 112
Mặc khải về ân
sủng trong Cựu Ước......................................... 112
I. Cựu Ước.
A. Lòng quãng đại của Thiên Chúa .....................113
B. Những cách
biểu hiện của lòng quãng đại thụ tạo..............113
C. Những hiệu
quả ký diệu....................................................115
II. Tân Ước .
A. Cái nhìn tổng quát.........................................116
B. Vài khía cạnh
của mầu nhiệm trong ân sủng .....................117
1. Ân sủng là
một tuyển chọn..............................................117
2. Ân sủng và
sinh hoạt tự do..............................................118
3. Tính cách
nhưng không của ân sủng ...............................119
4. Ân sủng và
sự công chính hóa ........................................120
Ân sủng và tự
do : Hoạt động thần linh và nhân linh ................121
Giáo huấn của
Công đồng Trentô về ân sủng ...........................122
Giáo huấn của
Giáo hội về sự tiền định.....................................125
1. Định nghĩa......................................................................125
2. Giáo huấn
của Giáo hội ..................................................125
3. Những đặc
tính củ tiền định............................................126
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét